Saturday, November 28, 2009

Phạm Hồng Sơn – Cách ly xã hội và tường lửa (firewall)

from talawas blog by Phạm Hồng Sơn

Theo xã hội học, cách ly xã hội (social isolation) là tình trạng một cá thể không được tiếp xúc hay giao tiếp với các cá thể khác của cùng một loài. Cách ly xã hội là một chủ đề nghiên cứu của các nhà xã hội học nhằm chứng minh tầm quan trọng của xã hội hóa (socialization)[1] trong quá trình phát triển của con người (human development). Cách ly xã hội thường được nghiên cứu thông qua những thực nghiệm trên động vật linh trưởng (không thuộc giống người) và các trường hợp con người đã bị cách ly khỏi xã hội. Các sách giáo khoa về xã hội học thường trích dẫn hai điển cứu về cách ly xã hội được tìm thấy như sau:

1. Anna là một cô gái được sinh ra ngoài ý muốn từ một phụ nữ có bệnh lý về tinh thần, vào năm 1932. Cô bị nuôi nhốt trong một buồng kho trên tầng mái của nhà người ông ngoại. Anna chỉ được quan tâm sao cho không bị chết, ngoài ra không được chăm sóc gì khác. Nhà xã hội học Kingsley Davis (1940) đã mô tả tình trạng của Anna khi cô được phát hiện vào năm 1938, khi đã lên 6 tuổi: Anna không hề có dấu hiệu của ngôn ngữ và tuyệt đối không có khả năng đi lại, không có cảm nhận về điệu bộ, không có một chút khả năng tự ăn ngay cả khi thức ăn để ở trước mặt, không hiểu gì về sạch bẩn. Cô ta có vẻ ngoài thờ ơ đến mức là rất khó có thể biết là cô ta có khả năng nghe ta nói hay không. Và đó là tất cả biểu hiện của một người đã được gần 6 tuổi.

Khi được đưa tới chăm sóc ở một trường học đặc biệt, Anna đã dần học được cách đi lại, nói và tự quan tâm đến bản thân. Anna đã học được cách định hướng, nói với những câu ngắn, rửa tay, đánh răng và giúp đỡ bạn, nhưng đã chết vào lúc 10 tuổi (Davis, 1940).

2. Genie, một cô gái được tìm thấy vào năm 1970 khi đã 13 tuổi. Genie bị khóa chặt ở trong buồng ngủ một mình và cứ định kỳ lại bị buộc chặt vào chiếc ghế bô (để đi đại, tiểu tiện) hoặc buộc vào một túi ngủ. Tình trạng này kéo dài suốt từ khi Genie được 20 tháng tuổi cho đến khi được phát hiện (13 tuổi). Genie chỉ được cho ăn bằng thức ăn của trẻ sơ sinh và luôn bị đánh bằng một mái chèo gỗ khi khóc. Genie không hề được nghe tiếng người vì không ai nói gì với cô và trong phòng cũng không có TV hay radio (Curtis, 1977; Pines, 1981). Genie sau đó đã được đưa vào một bệnh viện nhi khoa và được một nhà tâm lý học mô tả lại như sau: Vào lúc nhập viện, Genie gần như không có biểu hiện gì về mặt con người (trừ hình dạng). Cô không thể đứng được thẳng, miệng chảy dãi liên tục, không biết đi vệ sinh (như người bình thường), không có khả năng kiểm soát việc tiểu tiện hay đại tiện. Genie không thể ăn được thức ăn rắn và có chiều cao, cân nặng và hình dạng như một đứa trẻ chỉ bằng nửa tuổi của cô. Nếu đưa một đồ vật cho Genie, cô sẽ giơ tay chạm vào nó, cầm lấy nó và dùng ngón tay sờ soạng như không nhìn thấy đồ vật. Cô cọ nó vào má để cảm nhận nó. Khi tôi đến bên giường cô, và giơ tay về phía cô, cô cũng đón lấy và thận trọng sờ từng ngón tay tôi rồi cũng đưa lên cọ vào má cô. Genie có biểu hiện như một trẻ mù (Rymer, 1993: 45).

Các biện pháp chăm sóc đặc biệt đã được áp dụng cho Genie nhằm xã hội hóa và phát triển khả năng ngôn ngữ cho cô. Tuy nhiên, các kết quả đạt được chỉ ở mức hạn chế và đến những năm 1990, Genie vẫn phải sống trong môi trường chăm sóc đặc biệt [2] (hết trích).

Mặc dù hai trường hợp cách ly xã hội được ghi nhận trên đây có tính chất điển hình (bị cách ly xã hội gần như tuyệt đối) và có thể nói rằng không thể trở thành phổ biến trong xã hội (con người). Tuy nhiên, hai điển cứu đã cho thấy các mức độ cách ly xã hội tuyệt đối hoặc tương đối đều gây ra những thiếu hụt và cả những tàn phá rất khó hồi phục đối với sự phát triển của con người. Nói theo ngôn ngữ dân dã, hạn chế việc giao tiếp với xã hội có thể biến một con người tài năng thành một con người “ngớ ngẩn”, hết sức thương tâm.

Trong quá trình xã hội hóa, con người có thể gặp phải những chuyện không như ý muốn hoặc thậm chí bị lừa gạt hay đầu độc. Nhưng về luật pháp cũng như đạo đức, không ai có quyền “cách ly xã hội” người khác, kể cả là tạm thời[3]. Chưa kể, sự trưởng thành đích thực của con người, ngoài việc được bồi đắp qua những giao tiếp tích cực, cũng cần phải biết cả những trải nghiệm tiêu cực hay kinh nghiệm xấu xa của xã hội. Các thực nghiệm “cách ly xã hội” cũng bị đạo đức nghề nghiệp và luật pháp nghiêm cấm thực hiện trên con người.

Qui mô và chiều sâu tương tác của con người với xã hội trên thế giới luôn được mở rộng và sâu sắc thêm, đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia là hiện tượng có thể nhìn thấy trong thời đại ngày nay. Sự phát triển kinh ngạc của các phương tiện truyền thông qua Internet chính là thể hiện cho khát khao của con người muốn phá bỏ mọi “cách ly xã hội” để có thể phát triển bản thân một cách hoàn thiện hơn và hiệu quả hơn.

Cho dù một xã hội, một dân tộc không thể qui đơn giản như một cá nhân, nhưng, nếu hình dung một xã hội, một dân tộc như một con người, chúng ta có thể cảm nhận được sự tai hại thương tâm khi cả xã hội đó hay dân tộc đó bị “cách ly xã hội” với xã hội nhân loại rộng lớn.

Trên thực tế, không một nhà độc tài nào có thể “cách ly xã hội” từng người dân vào một căn phòng riêng biệt. Và xã hội hóa không chỉ thực hiện qua những tương tác bằng những phương tiện hiện đại trên Internet. Nhưng, khi một dân tộc bị những bức tường lửa (firewall) ngăn cách với các phương tiện xã hội hóa tiện lợi như facebook, twitter v.v…, hoặc ngăn cách với kho tàng trí tuệ nhân loại trên Internet thì có thể nói cả dân tộc đó đang ở trong tình trạng bị “cách ly xã hội”.

Một dân tộc đã bị “cách ly xã hội” thì chắc chắn không thể nào phát triển được bình thường, không thể có khả năng “sống” một cách bình thường với xã hội nhân loại. Một dân tộc đã không thể phát triển được bình thường thì những mục tiêu cao đẹp như “dân giàu, nước mạnh” hay “sánh vai với các cường quốc năm châu” chỉ là sự tự huyễn hoặc hay dối trá, không hơn!

Kết tội không phải là mục đích của các nhà xã hội học, do đó trong hai điển cứu kể trên, thủ phạm hầu như không được nhắc tới. Tuy nhiên, việc “cách ly xã hội” đối với con người, đã được tất cả thừa nhận, là một tội ác.

27/11/2009

© 2009 Phạm Hồng Sơn

© 2009 talawas blog

[1] Khái niệm “xã hội hóa” ở đây khác với “xã hội hóa” được định nghĩa trong một số từ điển tiếng Việt xuất bản ở trong nước (Từ điển tiếng Việt 1994 của NXB Khoa học Xã hội và Trung tâm Từ điển học và Từ điển tiếng Việt của NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học 2009 đều ghi là “làm cho trở thành của chung của xã hội”) hoặc theo nghĩa đang được dùng phổ biến trên các phương tiện đại chúng của Việt Nam hiện nay (có ý nói đến việc huy động thêm sự đóng góp, tham gia của khu vực tư nhân vào các công việc từ trước chỉ do nhà nước đảm nhiệm, ví dụ: Xã hội hóa trường học, xã hội hóa y tế,…). Trong xã hội học, “xã hội hóa” (socialization) có nhiều định nghĩa với những khác biệt ít nhiều. Xin giới thiệu hai định nghĩa sau: 1. “Là quá trình tương tác suốt đời của một cá nhân với xã hội, thông qua đó, cá nhân tạo được bản sắc riêng của mình và thu được các kỹ năng về xã hội, về hoạt động thể chất và tinh thần cần cho sự tồn tại trong xã hội.” (Diana Kendall, Sociology in our times – The Essentials, 4th Edition 2004, Baylor University, Thomson-Wadsworth, trang 77) 2. “Xã hội hóa là quá tình tương tác giữa người này với người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và sự thích nghi với những khuôn mẫu” (Fitcher, trong Xã hội học đại cương do Vũ Quang Hà, Nguyễn Thị Hồng Xoan biên soạn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, trang 131).

[2] Diana Kendall, Sociology in our times – The Essentials”, sđd, trang 80-81 (trường hợp cách ly xã hội thứ hai được dẫn ở đây có một sự trùng hợp rất trớ trêu là cô gái Genie có cái tên gợi đến một từ tiếng Pháp “Génie” có nghĩa là tài năng thiên bẩm, người thiên tài – PHS)

[3] Đối với các án phạt tù dành cho tội phạm, luật pháp cũng chỉ cho phép hạn chế các giao tiếp xã hội ở một mức độ nhất định và không áp dụng đối với người chưa thành niên (chưa trải qua quá trình xã hội hóa, được hiểu là đủ để đạt được những hiểu biết, kỹ năng cơ bản của con người xã hội). Đối với án phạt tử hình: xu thế của thế giới hiện nay là tiến tới bãi bỏ loại trừng phạt này.

Friday, October 30, 2009

Goodbye
Mary Hopkin
(Lennon/McCartney)

Please don't wake me until late tomorrow comes,
And I will not be late.
Late today when it becomes tomorrow.
I will leave to go away.
Goodbye, goodbye, goodbye, goodbye my love goodbye.
Song that lingered on my lips excite me now
And linger on my mind.
Leave your flower at my door
I'll leave them for the one who waits behind.
Far away my lover sings a lonely song
And calls me to his side.
When the song of lonely love
Invites me on I must go to his side.
Goodbye, goodbye, goodbye, goodbye my love goodbye.


Saturday, September 19, 2009

Thật khó diễn tả cảm giác của tôi trong lúc này, nửa như trống rỗng, nửa như lộn xộn, một sự trộn lẫn của chai sạn và cái bản tính tự bao giờ vẫn thế? Có quá nhiều cảm xúc nhưng không đủ đế khiến tôi cảm thấy bức bối đến cùng cực. Tôi vẫn làm mọi thứ như phản xạ: vào mạng đọc, lắng nghe, ghi chép như thể chẳng có gì xảy ra, như thể cái điều đang lộn xộn trong lòng bỗng nhiên có hình khối và trở nên bất động. Tôi cũng không biết mình đang cảm thấy chính xác điều gì. Một điều gì đó khiến tôi tự bảo rằng mọi thứ rất hiển nhiên phải xảy ra như thế, và một điều gì đó khác như là nuối tiếc, như là hoang mang không biết mình đúng hay sai. Rồi điều gì sẽ thay đổi, ngày mai tôi sẽ cảm thấy điều gì, tôi cũng không biết nữa.

Thiện Ý – Đổi mới Đảng để tránh nguy cơ sụp đổ! Góp ý với Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam

talawas – Mấy ngày gần đây, trên một số trang mạng lưu hành một bài viết nhan đề “Đổi mới Đảng để tránh nguy cơ sụp đổ!” của Thiện Ý, lấy nguồn từ Viet-studies ngày 17/9/2009, với lời giới thiệu: “Vì bài có ghi là “Góp ý với Đại hội XI ĐCSVN”, không có tính tư riêng, Viet-studies xin mạn phép tác giả (không biết là ai) đăng lại đây để mọi người được đọc”. Thiện Ý chính là tác giả của một số bài đã đăng trên talawas blog do tác giả trực tiếp gửi với tư cách “Khách mời”. Trong lời nhắn gửi đến Ban điều hành talawas blog, tác giả cho biết rằng bản thảo đã được đưa lên Viet-studies là bản chưa hoàn chỉnh, và đây là bản chính thức do ông chịu trách nhiệm.

___________

I. Tổ quốc trước hai hiểm họa

Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm. Mọi người Việt Nam yêu nước có trách nhiệm tìm đường đưa dân tộc thoát khỏi hai hiểm họa đó.

Chúng ta đã từng gọi một cách chính xác “bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh là kẻ thù trực tiếp nguy hiểm”. Những hành động lấn lướt khiêu khích gần đây ở Biển Đông chứng tỏ bản chất của chúng không hề thay đổi. Ngày 2-7-2009 trả lời ký giả Mạc Lâm của Đài Phát thanh RFA, nhà ngoại giao Dương Danh Dy từng làm việc nhiều năm ở Trung Quốc nhận định: Trung Quốc là anh láng giềng to, khỏe, tham, lại xấu tính và “sau thời điểm 2010 trở đi chưa biết họ làm cái gì đâu. Họ kinh khủng lắm…”

Hai mươi năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức cố gắng xây dựng với Bắc Kinh mối quan hệ “đồng chí” kèm theo “16 chữ vàng” (do Giang Trạch Dân đặt ra, Lê Khả Phiêu tán thành đưa vào Tuyên bố chung tháng 2-1999): “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Mấy năm sau lại bổ sung “tinh thần 4 tốt”: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Để tỏ lòng trung thành với mối quan hệ đó, Nhà nước Việt Nam đã bắt bớ những công dân của mình xuống đường biểu tình với khẩu hiệu “Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam”. Đó là thủ đoạn ngoại giao khôn khéo hay chỉ là sự đớn hèn? Tình trạng này còn kéo dài bao lâu? Rồi bằng cách nào để có thể thực hiện được di chúc thiêng liêng của Đức Trần Nhân Tôn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác!”? Không làm được điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thoát khỏi trách nhiệm trước lịch sử là đã để đất đai thấm máu cha ông lọt vào tay giặc.

Giặc nội xâm là cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chỉ thói tham ô, lãng phí, quan liêu. Từ năm 1948 khi ông viết những điều này trong cuốn Sửa đổi lề lối làm việc, 60 năm đã trôi qua, tham nhũng hồi ấy chỉ như ruồi muỗi, ngày nay đã trở thành hùm beo, mặc dù ở mọi cấp mọi ngành đều có cơ quan chống tham nhũng! Cứ xem chế độ tiền lương, Chủ tịch Nước cũng chưa đạt mức phải đóng thuế thu nhập, thế mà cán bộ nào cũng nhà cao cửa rộng tiêu xài hoang phí thì có thể biết tham nhũng là bệnh của cả hệ thống! Nguyên nhân nào đẻ ra tình trạng đó? Biện pháp nào để ngăn chặn đây?

Có người có thể nêu thêm hiểm họa về môi trường, nhưng thực tế cho thấy vụ Vedan và nhiều vụ khác đều là con đẻ của quan liêu tham nhũng.

Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử 80 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam để đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của Đảng và tìm lại sức sống cho Đảng, hòng cứu dân tộc thoát khỏi hai hiểm họa nói trên.

II. Ba thế mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Mọi đảng viên cộng sản kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh đều bắt đầu từ chủ nghĩa yêu nước mà đến với chủ nghĩa cộng sản. Bây giờ nhiều người cho đó là chọn nhầm đường, lạc đường, hoặc nặng lời hơn, có người lên án Đảng Cộng sản lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, rằng nhân dân theo Việt Minh, theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng, chớ không phải theo cộng sản. Có người cho rằng con đường cộng sản không phải là một tất yếu lịch sử để giải phóng dân tộc, rằng nếu…

Tiếc rằng lịch sử không cho chúng ta chữ “nếu”! Tôi thích câu nói của cựu Bí thư Đảng Cộng sản Nam Tư Milovan Djilas: “20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim, đến 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu.” Và cũng ông ấy đã nói: “Không thể nói rằng họ (người cộng sản) đã cố tình lừa dối, rồi sau đó không chịu thực hiện. Sự thật là họ không thể thực hiện được những điều mà họ đã nhiệt liệt tin tưởng”. Dù gì thì lịch sử cũng phải ghi nhận việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng tháng Tám và đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến ”Điện Biên chấn động địa cầu”. Những người “quốc gia” nên nhận sự kém cỏi của mình là không làm được gì có sức thuyết phục dân tộc. Chế độ Việt Nam Cộng hòa được dựng lên nhờ bàn tay của người Mỹ, mà người Mỹ thì đã đài thọ hơn 80% chiến phí cho người Pháp. Do đó Việt Nam Cộng hòa không tìm được niềm tin từ nhân dân. Rồi để cứu Việt Nam Cộng hòa và danh dự nước Mỹ, hằng triệu tấn bom đạn và chất độc hóa học đã dội lên đầu nhân dân Việt Nam!

Tất cả những điều ấy làm cho số đông người Việt Nam tin theo Đảng Cộng sản, từng thật lòng khi nói “ơn Bác, ơn Đảng”, thật lòng gọi hai tiếng “Đảng ta”! Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi răn dạy đảng viên đã nói một câu mà ngày nay nghe cứ tưởng như chuyện đùa: “Đừng tưởng rằng cứ dán lên ngực hai chữ cộng sản là sẽ được nhân dân yêu mến, nếu như không rèn luyện đạo đức…”

Tuy nhiên, vào đầu những năm 50 trở đi đã nảy mầm tai họa:

- Nhầm đồng minh thể chế, đồng minh giai đoạn, là đồng minh chiến lược, lâu dài; trong khi Bắc Kinh từ đầu đã có ý đồ bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán.

- Đường lối cách mạng uốn dần theo ý thức hệ cộng sản.

Hậu quả là niềm tin của nhân dân đối với Đảng nhiều lần bị hẫng hụt. Dù vậy đến nay vẫn chưa phải như đánh giá của nhà văn Đào Hiếu: “Trừ một số tư sản mại bản, tư sản đỏ,… thì đại đa số nhân dân Việt Nam đều căm ghét chế độ hiện nay”. Nếu nhận định đó là đúng thì sự sụp đổ của chế độ đã không thể cưỡng được. Đó có thể là tình trạng những năm 80, khi khủng hoảng kinh tế, xã hội chưa có lối ra.

2. Chính Đổi mới đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam gượng dậy, mạnh lên, lấy lại niềm tin của nhân dân.

Mấy bài nói của ông Lê Hồng Hà, nguyên cán bộ cao cấp Bộ Công an, về tình hình đất nước 20 năm qua, tôi rất đồng tình ở nhiều nhận định sâu sắc và những ý kiến về phương hướng sắp tới. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như ông khi cho rằng: “20 năm qua, cuộc đấu tranh giữa một bên là Đảng Cộng sản và một bên là toàn dân Việt Nam, kết quả là dân thắng Đảng trên hai mặt trận kinh tế và tư tưởng, nhưng dân chưa thắng về chính trị, vì hệ thống chuyên chính vô sản vẫn còn nguyên”. Tôi nghĩ, nói như vậy là phủ nhận sự chuyển biến bên trong của Đảng Cộng sản. Do đặc điểm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đề cao hai ngọn cờ Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội. Ý thức hệ cộng sản không được đặt cao tuyệt đối mà có thể du di. Cách xử lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước và sau Cách mạng tháng Tám là như thế. Cách xử lý của những người lãnh đạo Đảng Cộng sản trước cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội những năm 80 cũng là như thế. Nếu không có những đảng viên như Kim Ngọc, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, có lẽ phải kể cả ông Trường Chinh nữa, thì không có Đổi mới. Chúng ta có thể lấy Bắc Triều Tiên, Cuba làm đối chứng cho nhận định này! Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, điều ấy không ngoa. Nhưng dùng hai chữ Đổi mới là thủ đoạn đánh tráo khái niệm, thực ra phải nói là “trở lại như cũ trên con đường văn minh của nhân loại”.

Chính vì chỉ “đổi mới” chứ không chịu “trở lại như cũ” cho nên những người lãnh đạo Đảng Cộng sản luôn luôn ngập ngừng, cứ hai bước tiến lại một bước lùi, chỉ vì sợ bị mất độc quyền lãnh đạo. Ở đây xẩy ra cuộc đấu tranh giữa những người muốn Đổi mới toàn diện mạnh mẽ như Trần Xuân Bách, Trần Độ với lực lượng bảo thủ muốn ghìm lại, nhất là ở lĩnh vực chính trị. Dù gì thì Đổi mới đã trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Hệ thống chuyên chính vô sản cũng mềm đi chứ không cứng rắn được như trước. Ví dụ, trong vụ giới trí thức kiến nghị dừng dự án Bauxite Tây Nguyên, ban đầu đã có ý đe dọa, gán cho tội chịu ảnh hưởng của bọn phản động, nhưng rồi đã phải lùi lại. Một trang Web Bauxite Việt Nam có danh sách gần 3000 người ký tên trong 8 đợt kiến nghị, có hằng trăm ý kiến phản biện sắc bén, được hằng triệu người truy cập, quả là một hiện tượng chưa từng có.

Tự do kinh tế đem lại nhiều công ăn việc làm, cuộc sống vật chất của người dân dễ chịu hơn, bộ mặt đất nước cũng thay đổi. Các biện pháp quản lý xã hội có mềm hơn. Cán bộ, công chức nói chung gắn bó với Nhà nước. Doanh nhân được ưu đãi, chăm sóc. Do đó số đông tầng lớp trung lưu và trí thức chưa quá bức xúc đòi hỏi tự do dân chủ. Công nhân đình công, nông dân biểu tình đều vì quyền lợi vật chất cụ thể chứ chưa phải đòi được tự do lập Hội, lập Công đoàn. Có tài liệu cho rằng trung bình mỗi người dân Việt Nam có chân trong 2,33 tổ chức Hội, Đoàn, làm cho họ cứ tưởng rằng mình đã được nhiều tổ chức của một xã hội dân sự bảo vệ lợi ích khi cần thiết.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam nắm chắc lực lượng quân đội và công an bằng một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ trên xuống tận cơ sở và buộc họ đồng nhất Đảng với Tổ quốc. Nhận định của ông Lê Hồng Hà rất đúng khi cho rằng không thể dùng bạo lực để lật đổ chế độ này.

Tuy nhiên ba thế mạnh kể trên đang bị “ba điểm yếu” bào mòn từng ngày. Nếu không kịp thời có giải pháp sáng suốt và mạnh mẽ để Đổi mới Đảng thì về lâu dài nguy cơ sụp đổ khó tránh khỏi.

III. Ba điểm yếu của Đảng Cộng sản

1. Do ”ngu trung” với ý thức hệ, Đảng Cộng sản Việt Nam không rút được bài học nhầm lẫn chọn bạn đồng minh, đã tiếp tục phạm sai lầm lớn hơn ở cuộc gặp Thành Đô năm 1990, cầu hòa với Bắc Kinh trong thế yếu. Từ đó, hai kẻ thù mang mặt nạ “đồng chí”, giả vờ kết giao trên “16 chữ vàng”. (Do quá phẫn nộ trước hành động ngang ngược gần đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh, nhân dân đã nhại lại thành 16 chữ đen là “Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, cướp biển lâu dài, thôn tính tương lai”.) Nhầm lẫn trước năm 1954 còn có thể thông cảm, nhưng từ khi Bắc Kinh liên tục gây chiến tranh biên giới với tất cả quốc gia láng giềng Ấn Độ, Liên Xô, Việt Nam mà vẫn còn cho rằng “từng là xã hội chủ nghĩa với nhau vẫn tốt hơn” thì thật là mù quáng. Năm 1974 chúng đã chiếm Hoàng Sa, năm 1984 chúng bất ngờ tập kích Lão Sơn giết chết 3700 chiến sĩ Việt Nam, năm 1988 chúng chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa, giết chết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Chúng liên tục lấn tới, lập cơ quan hành chính Tam Sa gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, liên tiếp bắn giết, cướp thuyền, bắt ngư dân chúng ta đánh cá trên vùng biển của mình. Những ai có trái tim yêu nước đều cảm nhận chúng chỉ chực chờ thời cơ để đánh úp chiếm đoạt cả Trường Sa của chúng ta!

Từ tháng 3 năm 2009 đến nay, cả nước sôi sục một phong trào đòi hủy bỏ dự án Bauxite mở đường cho hùm dữ vào nhà. Các bậc đại công thần của chế độ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, các Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Văn Cương và hằng ngàn trí thức đã lên tiếng cảnh báo những người có trách nhiệm lãnh đạo đất nước phải thức tỉnh. Kỹ sư Doãn Mạnh Dũng, trong “Bài học bất ngờ từ Trung Quốc” đã viết: “Năm 2008, tập đoàn Tân Tạo đưa Trung Quốc vào quần đảo Nam Du xây dựng cảng than. Cũng năm 2008, Đài Loan thành công với dự án xây dựng khu luyện thép bên vịnh Sơn Dương. Cuối năm 2008, việc xây dựng nhà máy luyện nhôm Tân Rai, Nhân Cơ giúp Trung Quốc gài quả bom bùn độc trên thượng nguồn sông Đồng Nai. Nếu một ngày nào đó thực hiện kịch bản chiến tranh bất ngờ như năm 1979, họ sẽ nổ quả bom bùn đã gài sẵn ở Tân Rai làm các tỉnh miền Đông và thành phố Hồ Chí Minh chết khát. Họ chiếm Sơn Dương-Hà Tĩnh, chặn cả đường biển lẫn đường bộ từ Nam ra Bắc. Họ chiếm quần đảo Nam Du cắt đường biển quốc tế đến Việt Nam. Một tình huống vô cùng nguy khốn đang hiện ra trước mắt ta đó!”

Báo chí và người phát ngôn Việt Nam không dám nêu tên tàu Trung Quốc mà gọi là “tàu lạ”. Trong khi đó, báo mạng Hoàn cầu thuộc Tân hoa Xã bình luận rằng: Trung Quốc nên giải quyết tranh chấp biển đảo bằng biện pháp quân sự! Vậy mà Nhà nước Việt Nam vẫn sợ mất lòng Trung Quốc, không dám đưa vụ bắt ngư dân của mình ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Dư luận trong và ngoài nước đều chê trách những người lãnh đạo Việt Nam quá ngờ nghệch đã tự chui vào thế kẹt rồi đâm ra hèn nhát trước sức ép của Bắc Kinh. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc có bài viết tựa đề “Sao bỗng dưng họ lại hèn vậy?” trong đó ông nhắc lại nhiều hành xử anh hùng của người cộng sản Việt Nam trước đây, nhưng không lý giải câu hỏi mới đặt ra.

Ở những cuộc chiến tranh cứu nước trước đây, chúng ta luôn luôn có đồng minh thân thiết và được nhiều quốc gia khác ủng hộ. Trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc 1979, chúng ta còn có đồng minh Liên Xô. Trái lại trong cuộc đối đầu với bọn bành trướng Bắc Kinh hiện nay, Việt Nam hoàn toàn không có đồng minh chiến lược! Tiến sĩ Storey chủ biên tạp chí Đông Nam Á Đương đại cho rằng: “Vấn đề Biển Đông là chủ đề nan giải” (ý nói đối với Việt Nam) và nhận định: “Các nhà lãnh đạo Ba Đình không thể dựa vào một quốc gia nào khác ngoài bản thân mình trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Không thể dựa vào Mỹ, không thể dựa vào Nga và càng không thể dựa vào khối ASEAN”. Tại sao ông nhận định như vậy? Bởi vì chúng ta đã tự xếp mình là đồng minh thân thiết nhất của Trung Quốc. Khi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tiếp Lý Nguyên Triều, Trưởng ban Tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc, cám ơn họ đào tạo cán bộ cho Việt Nam thì cơ quan an ninh Việt Nam bắt luật sư Lê Công Định. Khi Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb đến Hà Nội thì Đài Truyền hình Việt Nam phát lời thú tội của bốn nhà hoạt động dân chủ, trong đó lời khai bổ sung của Lê Công Định là có gặp nhiều quan chức Mỹ, đại sứ Mỹ cho rằng tổ chức tư pháp cần tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều tờ báo và đài truyền hình bình luận rằng, những người hoạt động dân chủ bị bắt đều có liên hệ với các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Các động thái kể trên đã cho thế giới hiểu rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng về phía nào trên bàn cờ khu vực và toàn cầu!

Ông Lê Tuấn Huy trong bài “Bài ngửa ở Biển Đông và bài bản về tư duy”, đã nhận xét rất đúng rằng: “Trong tương quan Biển Đông đã bị đặt vào thế phải tranh chấp, Việt Nam lại không có đồng minh cơ hữu lẫn đồng minh thể chế, khi mà đồng minh lớn nhất về chính trị lẫn văn hóa chính là chủ thể muốn tước đoạt biển đảo. Việt Nam cũng hầu như không có được sự hậu thuẫn cuả công luận thế giới trong vấn đề này và đó cũng là một phần hậu quả từ việc thiếu vắng tương tác đồng minh”. Ông nhận định: “Chần chừ, với Việt Nam lúc này đồng nghĩa với việc tiếp tục đẩy mình vào cảnh thân cô thế cô!”.

Tổ quốc cấp thiết đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn giữa hai con đường: Tìm đồng minh cho dân tộc hay là giữ “đồng chí” cho Đảng. Thật ra thì bọn bành trướng Bắc Kinh đâu có xem Đảng Cộng sản Việt Nam là đồng chí. Cách hành xử trịch thượng của họ đối với ta giống như minh chủ đối với chư hầu! Nếu không mau chóng trả lời dứt khoát câu hỏi trên, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ càng ngày càng bị mất niềm tin của dân tộc và càng lâm vào thế kẹt.

2. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ thích hợp cho một xã hội có nền kinh tế công hữu và tập thể, phân phối bao cấp từ hạt gạo đến bó rau và đóng cửa với thế giới bên ngoài. Đổi mới kinh tế đã làm cho hệ thống chính trị không còn tương hợp, trở thành chiếc áo cũ rách. Các giá trị hôm qua đặt vào thực tế hôm nay hóa ra khôi hài.

Suốt 20 năm đổi mới, các kỳ Đại hội Đảng cứ khất lần khất lữa việc định nghĩa ”Cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” có nội dung gì? Và “Vai trò vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng” có gì thay đổi? Nếu chỉ nêu mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì không có gì khác các quốc gia dân chủ, nhưng so ra họ còn làm tốt hơn mình! Đến khóa 10 này, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam thấy không thể kéo dài mãi, đã tìm cách giải đáp ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 từ ngày 14 đến 22 tháng 1 năm 2008 như sau:

“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội” (Tài liệu học tập các nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2008, trang 33). Các nhà lý luận của Đảng quên rằng: “Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội ra đời và bắt đầu phát sinh tác dụng cùng với việc xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; phạm vi hoạt động của nó được mở rộng theo đà củng cố và phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tư liệu sản xuất trở thành sở hữu công cộng làm cho nền sản xuất không phải để phục vụ cho việc phát tài và làm giàu của cá nhân hay một giai cấp…” (Từ điển kinh tế, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1976, trang 455). Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân phát triển, xung khắc với quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội như nước với lửa, làm sao chịu được sự chi phối của nó?

Giai cấp công nhân đang nơm nớp lo bị mất việc làm. Nghe nói mình có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, họ bảo nhau: “Mấy ông này hay thiệt, vừa đại diện cho công nhân lại vừa là tư bản đỏ!” Hơn 2500 cuộc đình công (chỉ tính đến giữa năm 2008) của công nhân không có sự chỉ đạo của tổ chức công đoàn do Đảng lãnh đạo, đã nói lên niềm tin của họ đang đặt vào đâu.

Nói về chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhà nghiên cứu chủ nghĩa Marx Kornai János người Hungary cho rằng: “Đảng Cộng sản Trung Quốc trình bày ý thức hệ giả mạo khi dẫn chiếu đến chủ nghĩa Marx. Cái hệ thống mà Đảng Cộng sản ngự trị về cơ bản mang tính tư bản chủ nghĩa, vì sở hữu tư nhân đã trở thành hình thức sở hữu áp đảo, và bởi vì cơ chế điều phối chính là cơ chế thị trường”. Nhận định đó hoàn toàn đúng đối với đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do không chịu công nhận Đổi mới là vứt bỏ những nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội và do tiếp tục duy trì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin, Đảng đã làm cho xã hội đầy dẫy những hiện tượng thực giả lẫn lộn, nói một đằng hiểu một nẻo, đạo đức xuống cấp trầm trọng!

Nói “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, người dân thắc mắc: ”Trong lịch sử chưa có ai làm chủ mà không được lãnh đạo, lại còn bị người khác lãnh đạo!”

Nói “thông qua dân chủ bầu cử Quốc hội”, người dân bảo: “Lâu nay vẫn là Đảng cử, Dân bầu!”

Nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, người dân bảo: “Quốc hội bao giờ cũng họp sau khi Đảng đã họp và đề ra nghị quyết chỉ đạo cho Quốc hội phải làm gì. Vừa qua Bộ Chính trị quyết định đại dự án Bauxite đâu có cần thông qua Quốc hội!”

Nói đảng viên cán bộ là đày tớ của nhân dân, mấy ông hai lúa cười: “Cả đời mình làm chủ mệt mỏi quá rồi, cầu mong mấy đứa nhỏ sau này có đứa được làm đày tớ cho cả dòng họ được nhờ!”

Nói “Sống và làm việc theo pháp luật”, “Mọi người bình đẳng trước pháp luật”, người dân bảo: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa, tư pháp do Đảng lãnh đạo. Người có chức có quyền mới tham nhũng, mà có chức có quyền thì phải là đảng viên, vậy tư pháp làm sao dám xét xử tham nhũng? Hãy coi Tòa án Hà Nội, rồi Tòa án Tối cao cứ như gà mắc tóc trước vụ luật sư Cù Huy Hà Vũ khởi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì biết tư pháp Việt Nam được độc lập cỡ nào!”

Nói chúng ta đã thực hiện tốt quyền tự do báo chí, người dân hỏi: “Không nghe ông Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Thông tin Truyền thông bảo: ‘Phải đi đúng lề phải mới có tự do báo chí’ đó sao?”. Mới đây ông Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Đảng giao cho nhiệm vụ vận động nhân dân phản biện các chính sách của Đảng, nhưng suốt mấy năm, Mặt trận vẫn chưa làm tốt. Xin hỏi, có cách nào để làm tốt được đây, khi mà phản biện chỉ được phép nói trong cái “vòng kim cô” của nghị quyết Đảng? Ai chẳng sợ lỡ miệng ra ngoài vòng sẽ bị thiệt thân? Các ông Nguyễn Mạnh Tường luật sư Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kim Ngọc Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, Trần Xuân Bách Ủy viên Bộ Chính trị, là những nhà phản biện dũng cảm đã bị trừng phạt như thế nào ai chẳng biết!

Mới đây, Viện Nghiên cứu Phát triển IDS do giáo sư Hoàng Tụy làm Chủ tịch Hội đồng, Tiến sĩ Nguyễn Quang A làm Viện trưởng, đã phải tuyên bố tự giải thể để phản đối Quyết định 97 của Thủ tướng Chính phủ hạn chế quyền được nghiên cứu và phản biện. Ngày 15 tháng 9 năm 2009, Mặt trận Tổ quốc họp báo về Đại hội lần thứ 7, có nội dung “tăng cường đồng thuận xã hội, xây dựng đại đoàn kết toàn dân”. Làm sao đồng thuận được khi không có phản biện dân chủ mà chỉ có quyết định từ trên dội xuống?

Các giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền của nhân loại tiến bộ khi vào Việt Nam đều phải co lại cho vừa cái khung xã hội chủ nghĩa. Cách hiểu, cách làm của Việt Nam trái với các văn kiện quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã cam kết thực hiện. Năm nào Việt Nam cũng bị lên án vi phạm tự do dân chủ, nhân quyền và bị xếp hạng vào cuối bảng của các nước trên thế giới. Phản ứng của Nhà nước Việt Nam luôn luôn là “Nhận thông tin sai lạc với thực tế Việt Nam”, hoặc “can thiệp vào nội bộ Việt Nam”, nặng nề hơn nữa là “âm mưu của các thế lực thù địch hòng chống phá Việt Nam”. Chúng ta chấp nhận hội nhập với cộng đồng nhân loại, làm bạn với tất cả các nước, nhưng lại không đồng ý với người ta về những giá trị phổ biến của nền văn minh nhân loại là: xã hội công dân, sở hữu tư nhân, nhà nước pháp quyền và chế độ dân chủ đại nghị. Chủ nghĩa xã hội thế giới đã thất bại vì phủ định những giá trị phổ biến đó, cố tìm những giá trị khác (xã hội toàn trị, công hữu, kế hoạch hóa quan liêu bao cấp, chuyên chính vô sản, dân chủ tập trung xã hội chủ nghĩa) hòng thay thế, rồi lâm vào ngõ cụt và bị sụp đổ!

Trong bài phát biểu với Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 30-6-2009) ông Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quá trình cầm quyền với hình thức quản lý chuyên chính vô sản, với nguyên tắc tập trung dân chủ, xã hội chưa bao giờ được hưởng quyền tự do dân chủ đích thực”. Và ông xin phép lưu ý: “Nếu xã hội… họ cảm thấy áp lực chuyên chế nặng nề lắm thì không thể tránh được những biến động xấu, rất xấu có thể xảy ra bất cứ lúc nào”. Chính hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin đã làm suy yếu các khả năng chống tham nhũng, hiểm họa nội xâm của đất nước.

3. Nhiều người già ở Sài Gòn cho rằng tham nhũng hiện nay đã vượt xa chế độ Sài Gòn cũ. Có thể bào chữa rằng tham nhũng là vấn đề toàn cầu chứ có riêng gì mình. Vâng, nhưng tham nhũng ở các quốc gia dân chủ có nhiều thứ thuốc trị mà ta không có. Khi báo chí đưa tin Hoa Kỳ vừa bắt 44 người tham nhũng thì các ông già thạo tin bảo: “Nếu nước ta có cơ quan tư pháp độc lập như họ thì chỉ riêng quận mình thôi, số tên tham nhũng bị bắt cũng vượt xa con số của cả nước Mỹ!”

Có lẽ trên thế giới không nước nào có nhiều cơ quan có chức năng chống tham nhũng bằng nước ta. Đảng có Ủy ban Kiểm tra, Nhà nước có Tổng Thanh tra, các Bộ, các ngành, các đoàn thể, ở từng cấp đều có tổ chức thanh tra, kiểm tra. Có rất nhiều nghị quyết chỉ đạo chống tham nhũng. Một ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng làm Trưởng ban Chống Tham nhũng Trung ương. Các Đảng ủy được nhắc nhở phải coi chống tham nhũng là trách nhiệm lớn. Thế nhưng, tham nhũng đã xảy ra ở ngay các Đảng bộ đạt tiêu chuẩn “4 tốt”, danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh” như: Văn phòng Chính phủ, Đảng ủy Bộ Giao thông Vận tải, Đảng ủy PM18, Đảng ủy dự án Đại lộ Đông-Tây… Vì sao tham nhũng ở Việt Nam “kháng thuốc” ghê gớm vậy?

Có 3 nguyên nhân:

(a) Ở các quốc gia dân chủ họ có nền tư pháp độc lập, có thể buộc tội cả Tổng thống, còn pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Tay này sao nỡ chặt tay kia!

Trả lời sao đây khi bao nhiêu vụ án lớn không nhúc nhích:

- Vụ PMU 18 còn đó mà các nhà báo viết về nó đã phải đi tù;

- Vụ PCI dù người Nhật đã khai hối lộ cho Huỳnh Ngọc Sĩ, nhưng sau nửa năm, Sĩ chỉ bị khởi tố về tội cho thuê nhà! Dư luận tin rằng Sĩ không thể nuốt trôi khối đô la khổng lồ nếu không chia cho các vị thượng cấp có liên quan trách nhiệm đối với công trình này;

-Năm 2006, cảnh sát Đức phát hiện Siemens chuyển hơn 241.000 Euro vào tài khoản ở Singapore của một quan chức Việt Nam. Đến nay cảnh sát Việt Nam chưa động đậy;

- Năm 2008, một Việt kiều bị truy tố “hối lộ 150 nghìn đô la để bán được thiết bị cho một dự án ở Vũng Tàu”. Đến nay phía Việt Nam chưa có ý kiến gì;

- v.v…

(b) Ở các nước dân chủ có hệ thống báo chí được gọi là “quyền lực thứ tư”. Báo chí “lề phải” của chúng ta luôn luôn phải chờ được phép mới dám đưa tin. Trước đây các phóng viên viết bài chống tham nhũng cứ chờ cơ quan điều tra của Bộ Công an cung cấp tài liệu. Từ khi hai phóng viên của báo Tuổi trẻ và báo Thanh niên dùng tài liệu của công an để viết bài mà vẫn bị xử tù thì những cây bút chống tham nhũng của báo chí Việt Nam càng co lại giữ mình.

(c) Các quốc gia dân chủ đều có các đảng đối lập luôn luôn săm soi mọi hành vi sai trái của đảng cầm quyền. Do đó các đảng cầm quyền phải có nhiều biện pháp quản lý đảng viên giúp họ tránh các cạm bẫy. Còn ở nước ta, Đảng một mình một chợ, đảng viên chẳng cần giữ ý, không sợ bất cứ ai!

Tại Hội nghị Trung ương 3, tháng 7 năm 2006, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có nhận định rất đúng rằng: “Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Từ đó đến nay, ba năm đã trôi qua, tham nhũng không hề nao núng bởi nhận xét của ông. Vậy thì liệu rằng sẽ có lúc chính chế độ phải nao núng bởi tham nhũng?

IV. Nêu bốn câu hỏi, trước khi trình giải pháp

1. Ông Lý Quang Diệu cho rằng năm 1975, Sài Gòn có tiềm lực kinh tế ngang với Băng Cốc, nhưng 20 năm sau Sài Gòn tụt hậu so với Băng Cốc 20 năm. Vì sao? Có phải chỉ vì Băng Cốc có nhiều chính sách khuyến khích phát triển công thương nghiệp tư bản, trong khi đó Sài Gòn ra sức cải tạo công thương nghiệp tư bản? Nhìn rộng ra, tại sao tất cả các nước theo chủ nghĩa xã hội đều nghèo đói so với các nước phát triển tư bản? Nhiều nhà lý luận Mác-Lê sang các nước tư bản phát triển thừa nhận rằng ở các nước này ”có nhiều xã hội chủ nghĩa” hơn Liên Xô, Đông Âu! Cứ xem hai quốc gia bị chia cắt là Đức và Triều Tiên, bên theo chủ nghĩa xã hội thì nghèo đói, bên phát triển tư bản chủ nghĩa thì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh. Nước ta từ khi Đổi mới, tức là từ bỏ những nguyên lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa tự do kinh tế thì sức sản xuất được giải phóng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Như vậy làm sao có thể nói đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa là ưu việt? Lenin từng cho rằng trong cuộc cạnh tranh “ai thắng ai”, chiến thắng sẽ thuộc về bên nào có năng suất lao động cao hơn. Nếu chủ nghĩa xã hội có năng suất cao hơn thì đâu đã bị “hạ gục” (chữ của Tổng thống Mỹ Obama)? Có phải chế độ công hữu triệt tiêu động lực cá nhân trong lao động sáng tạo làm cho năng suất lao động xã hội sa sút?

2. Ngày nay, toàn thế giới đều biết trước đây ở Liên Xô, chính quyền Xô-viết đã thủ tiêu hằng vạn cán bộ cao cấp, hằng triệu dân lành, cấm phát hành nhiều tác phẩm tiến bộ và đày ải các tác giả của nó, kể cả những người đoạt giải Nobel. Ở Trung Quốc, Đại Cách mạng Văn hóa vô sản đã giết hằng triệu người, trong đó có cả Chủ tịch Nước, nhiều ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng và các nhà văn hóa lớn. Ở Campuchia, Đảng Cộng sản (từng là đồng minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời chống Mỹ) đã gây ra họa diệt chủng chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tất cả các đảng cộng sản ở Đông Âu, Cuba, Bắc Triều Tiên đều có những trang sử đen về nhân quyền. Có lẽ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam mềm hơn tất cả? Nhưng dù vậy, chúng ta cũng đâu có thiếu những ngày tháng nhắc tới không khỏi đau lòng: Cải cách Ruộng đất, chống Nhân văn – Giai phẩm, Cải tạo Công Thương nghiệp ở miền Bắc, Chỉnh đốn Tổ chức, Thanh trừ bọn xét lại chống Đảng, Cải tạo Tư sản miền Nam và những cán binh của chính quyền Sài Gòn, gây ra cảnh hàng triệu người vượt biển, một thảm họa “thuyền nhân”!

Có phải vì ý thức hệ cộng sản, độc quyền tư tưởng, triệt tiêu tư duy độc lập tự do sáng tác, phát minh, lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến bộ, coi lập trường giai cấp, một khái niệm rất mơ hồ là nền tảng đạo đức, từ đó đẻ ra tình trạng tay phải chặt tay trái, đồng chí giết nhau, lương giáo nghi kỵ, con tố cha, vợ tố chồng?

3. Qua hơn 20 năm đổi mới, một lớp doanh nhân (Đảng muốn gọi tránh, chứ đúng ra phải gọi đúng tên là giai cấp tư sản) đã hình thành, trong đó có khá đông đảng viên cộng sản và con em họ.

Dù cho rằng phải đổi mới nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng đổi mới thế nào cũng không thể vượt khỏi các nguyên lý của nó. Trước Đổi mới, chỉ cần diễn đạt khác các với các nguyên lý giáo điều chút xíu đã bị lên án là xét lại, chống Đảng, đã phải đi tù. Đó là tội của các đồng chí Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang… Đổi mới đến mức không còn các nguyên lý cũng tức là từ bỏ chủ nghĩa xã hội! Đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ Đại hội 6 đến nay thực sự đã từ bỏ hết các nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì Marx và Engels đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản phải xóa bỏ buôn bán, xóa bỏ chế độ sản xuất tư sản, xóa bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà xuất bản Sự Thật năm 1974, trang 70) và “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước” (Sách trên, trang 78).

Vậy nếu không phải là từ bỏ vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sách lược, cho phép giai cấp tư sản tồn tại trong “giai đoạn quá độ” thì có nghĩa là rồi đây Đảng sẽ có chính sách “từng bước một đoạt lấy” như đã từng làm trong quá khứ? Nhưng lần này liệu những đảng viên cộng sản (số rất đông) và con em họ, những “tư sản đỏ” có chấp nhận chính sách đó hay chống lại? Và toàn dân Việt Nam liệu có đồng ý thực hiện cái chính sách từng kéo lùi Sài Gòn tụt hậu 20 năm so với Băng Cốc? Nếu tính chung cả nước ta thì sự tụt hậu và nỗi đau đớn do chủ nghĩa xã hội theo mô hình Stalin gây ra còn ghê gớm hơn nhiều!

4. Vậy thì vì lý do gì Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết kiên trì chủ nghĩa xã hội?

Rốt lại, chỉ vì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản! Nhưng giữ nó thì phải gánh chịu “3 điểm yếu” từng ngày bào mòn “3 thế mạnh” của Đảng, còn bỏ nó liệu có phiêu lưu như Chủ tịch Nguyễn Minh Triết từng cảnh báo: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”?

Không! Tôi cho rằng trái lại, bỏ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa sẽ đem lại rất nhiều điều thần kỳ cho Đảng và cho Đất nước.

Tháng 7 năm 2009, ông Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội, có 4 bài viết và trả lời phỏng vấn của Tuần Việt Nam, nêu những tiêu đề: “Giờ là lúc phải đổi mới toàn diện”; “Tôi mong lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn Lý Quang Diệu” (Ông Lý Quang Diệu từng có ý kiến cho rằng việc hoạch định chính sách phát triển đất nước đừng để ảnh hưởng của ý thức hệ); “Dân là gốc, pháp luật là tối thượng”; “Dân là gốc thuộc phạm trù vĩnh viễn, Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử”; “Không ai độc quyền chân lý”, “Qua tranh luận, thử thách trong cuộc sống… có khi phải thay đổi nhận thức tới 180 độ”. Những ý kiến trên đây của ông Nguyễn Văn An gợi ra nhiều điều quan trọng cho nội dung Đổi mới toàn diện.

Trong bài phát biểu nhân Kỷ niệm Quốc khánh 2-9-2009, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tuyên bố “Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới”. Chúng ta đã đổi mới ngoạn mục về kinh tế, nay “Đổi mới toàn diện” như Tổng Bí thư tuyên bố chính là yêu cầu cấp thiết của toàn dân tộc. Tiếc rằng, Tổng Bí thư chưa nói rõ thế nào là Đổi mới toàn diện.

Chúng tôi nghĩ rằng Đổi mới toàn diện cần theo những nguyên tắc sau đây:

“Đổi mới phải phù hợp với trào lưu thời đại của nhân loại ở thế kỷ 21; phải có tác dụng tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải Đổi mới tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội và chính trị”.

V. Bỏ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: Một mũi tên trúng nhiều đích

1. Từ đây, Đảng và dân tộc ta thực sự trở lại với tư tưởng Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh (như giáo sư người Nhật Yoshiharu Tsuboi nhận định) đã được thực thi sau Cách mạng tháng Tám: Một chính phủ liên hiệp thể hiện quyền làm chủ rộng rãi của toàn dân Việt Nam đoàn kết; một bản Hiến pháp 1946 tiến bộ, quy định rõ tổ chức quyền lực Nhà nước và các quyền tự do dân chủ của nhân dân trong xã hội dân sự.

Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Hồ Chí Minh là một người không giáo điều, ý tưởng nào có thể áp dụng để đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc thì người chấp nhận. Người chịu theo Quốc tế 3 chỉ vì bản Cương lĩnh của Lenin ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Năm 1930, “Chánh cương đoàn kết dân tộc” do người soạn thảo cho Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm Stalin nổi giận: đó là chủ nghĩa dân tộc, không phải cộng sản! Năm 1945, người tuyên bố tự giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương để có thể tranh thủ sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các nước đồng minh, tránh cho dân tộc không phải gánh chịu cuộc chiến tranh tái xâm lược của thực dân Pháp. Chính các thế lực đế quốc của Pháp và Mỹ đã buộc cụ Hồ phải dựa hẳn vào phe cộng sản.

Tư tưởng chủ yếu của Hồ Chí Minh là:

“Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam!”

“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.”

“Không có gì quý hơn Độc lập Tự do!”

“Nếu nước đã được độc lập mà nhân dân không có tự do hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì.”

“Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.”

Chính vì thế mà một nhà sử học Anh cho rằng, từ những ứng xử của người trong lịch sử có thể tin chắc, nếu còn sống Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ là người khởi xướng đổi mới một cách sớm sủa và mạnh mẽ.

Trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta là “Đảng Việt Nam” sẽ được toàn dân tộc vui mừng, tin tưởng. Một chính quyền thực sự là của Dân, do Dân, vì Dân, rũ bỏ được các khuyết tật đã kể ở trên. Một xã hội dân sự, người dân có đầy đủ tự do, dân chủ, nhân quyền như các nước tiên tiến. Nước ta thực sự hội nhập với thế giới trong mọi giá trị văn minh của nhân loại. Từ nay không còn mang nỗi lo quái gở là sợ bị “diễn biến hòa bình”! (Gọi là quái gở bởi vì toàn nhân loại tiến bộ không có ai lo như thế. Trái lại ở nước Singapore, người ta còn cho rằng “Thế giới đã thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi là chết!”). Từ nay không còn nơm nớp lo “Các thế lực thù địch phương Tây can thiệp vào nội bộ”. Và quan trọng hơn là từ nay ở vị thế mới trong cộng đồng các quốc gia tiến bộ văn minh của nhân loại, chúng ta mặc nhiên có những đồng minh chiến lược trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Có đồng minh chiến lược không phải để gây chiến với bọn bành trướng mà là để có đủ sức mạnh nói chuyện hòa bình, buộc chúng thực thi công lý, đòi lại biển đảo bị chúng chiếm đoạt bất hợp pháp.

Với Nhà nước pháp quyền, với lực lượng truyền thông “đệ tứ quyền”, có sự phản biện của xã hội dân sự, “giặc nội xâm” cũng sẽ bị đẩy lùi.

2. Đổi mới Đảng, từ bỏ ý thức hệ cộng sản sẽ là phép màu san bằng rào cản, hòa giải hòa hợp với 3 triệu đồng bào ở nước ngoài, những người yêu nước, có tri thức, có tấm lòng, nhưng không tán thành chủ nghĩa cộng sản và bị ám ảnh rất nặng nề bởi nỗi oán hận từ quá khứ. Từ đây sẽ không còn những cuộc biểu tình chống đối chính quyền trong nước, ngăn cản bà con muốn về xây dựng quê hương. Từ đây các em sinh viên ưu tú du học ở các nước tiên tiến, tiếp thụ các lý tưởng dân chủ không còn nỗi bức xúc, quay ra hoạt động chính trị đối lập với Nhà nước rồi lâm vào cảnh tù tội oan uổng.

Sức mạnh toàn dân tộc sẽ tăng lên gấp bội giúp cho sự nghiệp canh tân đất nước có hiệu quả hơn bao giờ hết. Lịch sử sẽ ghi nhận hành động dũng cảm triệt để đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là mở ra con đường đại phúc cho dân tộc!

3. Đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên, liệu sự chọn lựa này có làm mất quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau khi đã là Đảng của dân tộc) hay không? Đã đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên thì không nên tính toán hơn thiệt. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng không có một đảng nào có thế mạnh từ lịch sử như Đảng Cộng sản Việt Nam (tiền thân của một Đảng dân tộc được kế thừa Đảng Cộng sản Việt Nam). Là một Đảng lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc, rồi chủ xướng đổi mới, cuối cùng dám từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để tự biến mình hoàn toàn thành Đảng của Dân tộc. Vậy thì trong tâm tưởng người Việt Nam yêu nước còn có thế lực nào đáng gửi gắm niềm tin là có đủ tài, đủ đức lãnh đạo đất nước hơn một Đảng như thế?

4. Khi đã có Cương lĩnh đề ra mục tiêu và nội dung đổi mới, Đảng sẽ định một lộ trình thật khoa học để từng bước thực hiện sự nghiệp trọng đại này một cách chắc chắn.

(a) Nhà thơ Thanh Thảo cho rằng: Nên trở về với Hiến pháp 1946, đó là Hiến pháp tiến bộ và dân chủ nhất từ trước tới nay ở Việt Nam; nên trở về với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, là đảng của người lao động cũng là của nhân dân Việt Nam. Như vậy không phải tạo ra đảng mới nào cả mà vẫn là mới so với hiện nay. Nên khôi phục lại hai Đảng Xã hội và Dân chủ đã từng có, để tập hợp những người trí thức yêu nước và giữ vai trò phản biện dân chủ (Thư gửi Thiện Ý).

(b) Tuy nhiên, có nhiều người cho rằng nên từ thực tế hôm nay mà tìm lối ra thích hợp hơn là quay lại cái cũ. Ví dụ, bắt đầu luật hóa Điều 4 để sự lãnh đạo của Đảng không là đảng trị. Xây dựng luật bầu cử đảm bảo quyền tự do ứng cử bầu cử của nhân dân, để Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, hệ thống chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân. Xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập để Chính phủ điều hành việc nước bằng pháp luật và chịu sự giám sát của nhân dân theo pháp luật. Cuối cùng khi đến lúc đủ điều kiện sẽ soạn lại Hiến pháp theo đúng tinh thần Dân chủ Cộng hòa, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân và phù hợp với lương tri của đa số các dân tộc trong thời đại ngày nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam có thể theo cách của Đảng Xã hội Pháp hồi 1920: Những người muốn đảng trở thành Đảng của dân tộc và những người muốn giữ nguyên Đảng Cộng sản tách nhau ra thành hai đảng. Sau đó, tổ chức trưng cầu ý dân bằng một cuộc bỏ phiếu kín chọn đảng lãnh đạo từ hai đảng này. Đảng không được nhân dân chọn làm lãnh đạo sẽ trở thành đảng đối lập.

Tôi muốn nhắc lại bài học của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia trước đây để càng thêm tin tưởng việc triệt để Đổi mới Đảng:

Khi chấp nhận hình thức Chính phủ Liên hiệp, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã mở Đại hội đề ra Cương lĩnh mới, tuyên bố từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, đổi tên đảng thành Đảng Nhân dân Campuchia (bỏ từ Cách mạng với ngụ ý trở thành Đảng của dân tộc). Đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam dự Đại hội này là ông Lê Đức Anh, nguyên cố vấn cho đảng bạn, đã tức giận cho rằng “Chưa thua mà đã cuốn cờ!” (ý nói cờ cộng sản). Lúc ấy thế và lực của Đảng Nhân dân Campuchia rất yếu so với Đảng Bảo hoàng của Ranariddh được uy tín của Sihanouk và Nhà nước Vương quốc yểm trợ. Vậy mà từ vị thế phải chia đôi quyền lực Nhà nước (2 ông Thủ tướng, 2 ông Bộ trưởng, cho tới các cấp dưới…) Đảng Nhân dân Campuchia đã vượt lên sau mỗi nhiệm kỳ và ngày nay hoàn toàn ở thế thượng phong so với các đảng đối lập.

Đảng Cộng sản Việt Nam có những ưu thế tuyệt đối mà Đảng Nhân dân Campuchia ngày ấy không thể sánh. Do đó giải pháp triệt để đổi mới Đảng, từ bỏ chủ nghĩa xã hội, trở thành Đảng của dân tộc, không hề là phiêu lưu mà là một hành động sáng suốt, bắt đúng nhịp của thời đại, đáp ứng đúng nguyện vọng của dân tộc, nhất định Đảng sẽ cùng Dân tộc đồng hành tới tương lai vô cùng xán lạn!

© 2009 Thiện Ý

© 2009 talawas blog

Friday, September 18, 2009

Chuyện bình thường số 1


Download bài hát Chuyện Bình Thường Số 1

Chuyện bình thường số 1
Phú Quang phổ thơ?? - Ca sĩ : Ngọc Anh

Thành phố mỏi mòn ..
Những âm thanh quen thuộc
Những chiều len lách giữa phố đông
Anh chợt thấy thân phận mình bé nhỏ
Suốt nửa cuộc đời không viết nổi bài tình ca!

Ở nơi nao phương trời xa mù tắp
Gió cuốn tóc em bay vấn vương sợi tình đầu
Từng bước lang thang nhớ thương hoài
Thành phố không bao giờ trở lại
Anh vẫn sống miệt mài …
Những tháng ngày phủ quanh trang sách trắng
Như viên sỏi nhỏ nhoi đau gót giầy anh
Từng đêm … từng đêm!

Monday, September 14, 2009

Crossroads



Crossroads- Don McLean

I’ve got nothing on my mind: nothing to remember,
Nothing to forget. and I’ve got nothing to regret,
But I’m all tied up on the inside,
No one knows quite what I’ve got;
And I know that on the outside
What I used to be, I’m not anymore.

You know I’ve heard about people like me,
But I never made the connection.
They walk one road to set them free
And find they’ve gone the wrong direction.

But there’s no need for turning back
`cause all roads lead to where I stand.
And I believe I’ll walk them all
No matter what I may have planned.

Can you remember who I was? can you still feel it?
Can you find my pain? can you heal it?
Then lay your hands upon me now
And cast this darkness from my soul.
You alone can light my way.
You alone can make me whole once again.

We’ve walked both sides of every street
Through all kinds of windy weather.
But that was never our defeat
As long as we could walk together.

So there’s no need for turning back
`cause all roads lead to where we stand.
And I believe well walk them all
No matter what we may have planned.


Ngã ba đường


Tôi chẳng còn gì trong trí, không còn gì để nhớ

Không còn gì để quên, và cũng chẳng còn gì để mà hối tiếc

Nhưng tôi đã bị trói hoàn toàn ở bên trong

Không ai biết về những gì tôi có

Và tôi biết ở bề ngoài

Những điều tôi đã từng, nay chẳng còn thế nữa


Em biết đo, có những người giống như tôi

Nhưng tôi chưa từng quen biết

Họ đi trên con đường tự do của mình

Và nhận ra có thể đã sai đường


Nhưng không cần thiết phải quay trở lại

Vì mọi con đường đều dẫn đến nơi tôi đang đứng

Và tôi tin, tôi cũng sẽ lại đi qua những con đường đó

Bất kể là tôi có thể sắp đặt trước điều gì


Em có nhớ tôi là ai? Em có còn cảm thấy điều đó không?

Em có cảm thấy nỗi đau này? Em có chữa lành được nó?

Hãy đặt bàn tay em lên tôi

Và vứt bỏ bóng tối khỏi tâm hồn tôi

Một mình em có thể thắp sáng con đường tôi đi

Một mình em có thể khiến tôi lại như xưa


Chúng ta đã từng bước đi trên 2 phía của mỗi con đường

Qua đủ mùa gió thổi

Nhưng đó chẳng phải là nỗi thất bại của ta

Chừng nào ta vẫn có thể bước bên nhau


Vì thế mà chẳng cần quay trở lại

Vì mọi con đường đều dẫn tới nơi chúng ta đang đứng

Và tôi tin sẽ đi qua chúng vững vàng

Bất kể là chúng ta có thể sắp đặt trước điều gì


Cuốn The Don McLean Story của Alan Howard viết về bài hát này như sau:


Crossroads…

His mother’s death in 1985 made him feel mortal for the first time. It wouldn’t be too many years before he had lived as long as his father. He had several beautiful homes, stocks and bonds, and no one to share it all with. His parents had never been impressed by money, fame, or material possessions. To them, all that mattered was a person’s character, and Don sensed that they would not be pleased with him.


His song “Crossroads” could serve as a metaphor for this point in his life. He says,


“I wanted to retire and join a monastery, because I felt I was becoming the wrong person. I didn’t like the person I was becoming. There was a part of me that was starting to use people. Part of my heart was dying and becoming cold. It was because I could do bad things that I did them. I realized that I was losing part of my sense, part of what my father had given me. I was self-aware enough to know that, and I realized that the only answer was to get out of the business and do something that could help me reclaim myself, reclaim my soul, and reclaim my spirit. I thought about joining a monastery, because I felt I would never find the right woman in my life. Leonard Cohen and Cat Stevens both withdrew to religion, and I know why. I actually asked the Lord to show me the way, to tell me what I needed to know or what I was supposed to do, because I was at a crossroads.”


Ngã ba đường


Cái chết của mẹ vào năm 1985 đã khiến ông lần đầu tiên cảm nhận về cái chết. Không quá nhiều năm trước khi ông vẫn sống cùng với cha. Ông có nhiều nhà đẹp, chứng khoán và trái phiếu, và không có ai để sẻ chia. Cha mẹ ông chưa từng bị ấn tượng bởi tiền bạc, danh tiếng, hay của cải vật chất. Đối với họ, tất cả vấn đề chính là tích cách của con người và Don cảm thấy họ không hài long về ông.

Bài hát Crossroads như một ẩn dụ về thời điểm này của cuộc đời ông, ông nói,

“Tôi muốn lui về ở ẩn trong tu viện, bởi vì tôi cảm thấy mình đã trở nên một kẻ sai lầm. Tôi không thích con người mà tôi đã trở thành. Như thể chỉ một phần của tôi là người. Một phần trái tim tôi đang chết và trở nên lạnh giá. Là vì những điều tôi đã làm có lẽ là những điều tệ hại. Tôi nhận ra mình đang đánh mất dần những cảm giác của mình, phần mà cha tôi đã cho tôi. Tôi tự nhận thức đủ để hiểu về mình, và tôi nhận ra chỉ có thể tìm ra câu trả lời bằng cách từ bỏ công việc và làm điều gì đó giúp tự vấn bản thân, tự vấn tâm hồn mình, tinh thần mình. Tôi đã nghĩ đến việc vào tu viện vì tôi cảm thấy mình sẽ không bao giờ tìm thấy người phụ nữ phù hợp trong cuộc đời mình. Cả Leonard Cohen và Cat Stevens đều từ bỏ để đến với tôn giáo, và tôi hiểu tại sao. Tôi thực sự đã cầu xin Chúa chỉ đường cho mình, chỉ cho tôi những gì tôi cần phải biết hay những gì tôi nên làm, bởi vì tôi đang ở ngã ba đường.”

Sunday, April 19, 2009

Tháng tư

Cuối tháng tư!
Sài gòn đã bắt đầu mưa nhiều. Ngày nắng oi và chiều đến những tảng mây màu xám đua nhau kéo về rợp kín những góc trời. Có khi ầm ì tới khuya vẫn không mưa. Có khi làm người ta thảng thốt bởi những thác nước trắng trời. Và gió. Mùa này trên phòng làm việc ở cơ quan bắt đầu vào mùa gió hú, gió rít qua những khe cửa kính không đủ kín, tạo thành những tiếng hú thấy nổi gai ốc gai gà. Mùa này "mưa thay lá me", ngoài cửa kính những đọt me non đang bắt đầu trổ ra xanh biếc, cứ nhìn mãi nhìn mãi thấy lòng bâng khuâng, thấy lòng nhớ mình những năm đã qua cứ đến mùa lại ngắm lá me xanh với biết bao những tâm trạng khác nhau. Mình sắp rời khỏi nơi này, không có gì luyến tiếc quá nhiều về con người. Có điều mình đã làm việc ở đây quá lâu, mình lại cảm thấy có lẽ mình sẽ nhớ những cảnh vật này, những cảm giác khi mình ngó qua khung cửa hay những nghĩ suy nào đó của riêng mình. Thế là cũng đến lúc ra đi, tạm biệt vậy...

Tuesday, April 7, 2009

Entry for April 07, 2009

Hiện tại mình cập nhật thông tin từ các blog khác yahoo hoặc một số trang web khác bằng google reader, mình chỉ mới sử dụng vài tháng gần đây và thấy nó rất hay. Nói chung các thông tin cập nhật của các blog như multiply, blogspot, wordpress, opera, cả một số trang bị chặn như minh biện đều có thể đọc được, và gần đây khi mình add blog yahoo cũng được luôn (trước đó thì không được). Mình cũng không rành lắm về IT, chỉ là mò mẫm làm đại nên mình nghĩ là nhiều tính năng của google reader mình chưa hiểu hết, thêm vào đó công cụ này cũng đang được xây dựng và hoàn thiện thêm mà mình không có thời gian tìm hiểu.
Một công cụ khác nữa của google để quản lý thông tin mình mới sử dụng gần đây là igoogle. Tựa như một trang web của riêng mình với các gadget là những nội dung mình quan tâm. Cũng là mò mẫm làm đại nên mình không nhớ bằng cách nào mà mình add được vào đó cả google reader, cả gmail, cả google tips... nên thấy rất tiện, chỉ cần đăng nhập vào igoogle mình có thể biết ngay nhận được mail gì, có những tin tức nào mới trong google reader, và nhiều thứ khác nữa.
Bạn nào đó có quan tâm và biết thêm gì thì chỉ mình với nhé!

Sunday, April 5, 2009

Entry for April 06, 2009

Click to view my Personality Profile page

Cũng test thử:

The Nurturer

As an ISFJ, your primary mode of living is focused internally, where you takes things in via your five senses in a literal, concrete fashion. Your secondary mode is external, where you deal with things according to how you feel about them, or how they fit into your personal value system.

ISFJs live in a world that is concrete and kind. They are truly warm and kind-hearted, and want to believe the best of people. They value harmony and cooperation, and are likely to be very sensitive to other people's feelings. People value the ISFJ for their consideration and awareness, and their ability to bring out the best in others by their firm desire to believe the best.

ISFJs have a rich inner world that is not usually obvious to observers. They constantly take in information about people and situations that is personally important to them, and store it away. This tremendous store of information is usually startlingly accurate, because the ISFJ has an exceptional memory about things that are important to their value systems. It would not be uncommon for the ISFJ to remember a particular facial expression or conversation in precise detail years after the event occured, if the situation made an impression on the ISFJ.

ISFJs have a very clear idea of the way things should be, which they strive to attain. They value security and kindness, and respect traditions and laws. They tend to believe that existing systems are there because they work. Therefore, they're not likely to buy into doing things in a new way, unless they're shown in a concrete way why its better than the established method.

ISFJs learn best by doing, rather than by reading about something in a book, or applying theory. For this reason, they are not likely to be found in fields which require a lot of conceptual analysis or theory. They value practical application. Traditional methods of higher education, which require a lot of theorizing and abstraction, are likely to be a chore for the ISFJ. The ISFJ learns a task best by being shown its practical application. Once the task is learned, and its practical importance is understood, the ISFJ will faithfully and tirelessly carry through the task to completion. The ISFJ is extremely dependable.

The ISFJ has an extremely well-developed sense of space, function, and aesthetic appeal. For that reason, they're likely to have beautifully furnished, functional homes. They make extremely good interior decorators. This special ability, combined with their sensitivity to other's feelings and desires, makes them very likely to be great gift-givers - finding the right gift which will be truly appreciated by the recipient.

More so than other types, ISFJs are extremely aware of their own internal feelings, as well as other people's feelings. They do not usually express their own feelings, keeping things inside. If they are negative feelings, they may build up inside the ISFJ until they turn into firm judgments against individuals which are difficult to unseed, once set. Many ISFJs learn to express themselves, and find outlets for their powerful emotions.

Just as the ISFJ is not likely to express their feelings, they are also not likely to let on that they know how others are feeling. However, they will speak up when they feel another individual really needs help, and in such cases they can truly help others become aware of their feelings.

The ISFJ feels a strong sense of responsibility and duty. They take their responsibilities very seriously, and can be counted on to follow through. For this reason, people naturally tend to rely on them. The ISFJ has a difficult time saying "no" when asked to do something, and may become over-burdened. In such cases, the ISFJ does not usually express their difficulties to others, because they intensely dislike conflict, and because they tend to place other people's needs over their own. The ISFJ needs to learn to identify, value, and express their own needs, if they wish to avoid becoming over-worked and taken for granted.

ISFJs need positive feedback from others. In the absence of positive feedback, or in the face of criticism, the ISFJ gets discouraged, and may even become depressed. When down on themselves or under great stress, the ISFJ begins to imagine all of the things that might go critically wrong in their life. They have strong feelings of inadequacy, and become convinced that "everything is all wrong", or "I can't do anything right".

The ISFJ is warm, generous, and dependable. They have many special gifts to offer, in their sensitivity to others, and their strong ability to keep things running smoothly. They need to remember to not be overly critical of themselves, and to give themselves some of the warmth and love which they freely dispense to others.

Jungian functional preference ordering:

Dominant: Introverted Sensing
Auxilliary: Extraverted Feeling
Tertiary: Introverted Thinking
Inferior: Extraverted Intuition

Friday, March 20, 2009

Tháng 3

Tháng ba

Bây giờ tôi viết về tháng 3 khi tháng 3 không còn nữa, đã sang tháng tư mất rồi. Viết về cái đã qua bao giờ cũng dễ hơn khi ta đang ở trong nó. Cũng như đôi khi có những chuyện ta không sao nói ra được chỉ bởi vì ta chưa thực sự lãng quên, bởi nó còn đọng lại trong ta như những vết thương còn mới, hễ đụng tới là chảy máu.
Dường như tháng ba lúc nào cũng có những sự kiện nào đó gắn bó với tôi, những sự kiện vui buồn lẫn lộn và bởi trong lúc giao mùa, có cái bâng khuâng của không gian khiến cho mình nhớ dai hơn hết thảy. Tháng ba này lại có những điều xảy đến, có thể nó sẽ thay đổi cả cuộc đời tôi. Tôi không hối tiếc vì mình đã quyết định dù rằng đường xa mệt mỏi, không thấy được điểm đến là đâu. Và tháng 3 lại trở thành hoài niệm.
Cuộc đời đôi khi trớ trêu làm sao, như thể quả thực có định mệnh và tiền kiếp.

Entry for March 20, 2009

Mùa này, hoa sao đen đang nở, đi trên những con phố nghe mùi hoa ngọt ngào lan tỏa và những cánh hoa nhỏ bé gieo rắc đầy lối đi. Năm ngoái chỉ thấy hoa nở lác đác, năm nay lại gặp lại mùa hoa 3 năm trước, mùa hoa vào tháng 3, hình như năm nào hoa nở vào tháng ba thì năm ấy đều nở rộ kinh khủng, ngước nhìn thấy cả cây óng lên cái màu vàng xanh của hoa và mùi hương thì... nao lòng.

Nhớ những cơn mưa đầu mùa xao xác những cánh hoa rơi rụng. Năm nay có lẽ mùa mưa đến sớm.

Thursday, February 26, 2009

Entry for February 26, 2009

AS I LAY ME DOWN

Sophie. B. Hawkins


It felt like spring time...

On this February morning.

In the courtyard...

Birds were singing your praise.

I'm still recalling things you said.

To make me feel alright.

I carried them with me today.

Now...As I lay me down to sleep...

This I pray...that you will hold me dear.

Though I'm far away...

I'll whisper your name into the sky.

I will wake up happy.

I wonder...why I feel so high?

Though I am not above the sorrow.

Heavy hearted till you call my name.

And it sounds like church bells...

Or the whistle of a train.

On a summer evening...

I'll run to meet you.

Barefoot...barely breathing.


As I lay me down to sleep...

This I pray...that you will hold me dear.

Though I'm far away...

I'll whisper your name into the sky.

And I will wake up happy.


It's not too near for me.

Like a flower...I need the rain.

Though it's not clear to me...

Every season has its change.

And I will see you...

When the sun comes out again.

As I lay me down to sleep...

This I pray...that you will hold me dear.

Though I'm far away...

I'll whisper your name into the sky.

And I will wake up happy.


As I lay me down to sleep...

This I pray...that you will hold me dear.

Though I'm far away...

I'll whisper your name into the sky.

And I will wake up happy.

When the sun comes out again.

Dường như đã là mùa xuân

Giữa tinh mơ tháng 2

nơi hiên nhà

Những chú chim đang hót những lời em ca hát

Tôi vẫn nhớ những lời em đã nói

Những điều làm tôi cảm thấy bình yên

Tôi đã mang theo mình cho tới hôm nay

Và giờ đây, khi tôi để mình chìm vào giấc ngủ

Phút giây này, tôi nguyện cầu em sẽ ôm tôi ôi người yêu dấu

Dù rằng tôi đang rất xa em

Tôi sẽ gọi thầm tên em giữa trời cao

Tôi sẽ thức dậy trong niềm hạnh phúc

Tôi tự hỏi… tại sao mình hứng khởi

Dù tôi không vượt qua được nỗi muộn phiền

Trái tim nặng nề cho tới khi em gọi tên tôi

Như tiếng chuông ngân

Hay tiếng còi tàu

Giữa buổi tối mùa hè

Tôi sẽ chạy tới bên em

Chân trần…như gió thoảng

Khi tôi để mình chìm vào giấc ngủ

Phút giây này, tôi nguyện cầu em sẽ ôm tôi ôi người yêu dấu

Dù rằng tôi đang rất xa em

Tôi sẽ gọi thầm tên em giữa trời cao

Và tôi sẽ thức dậy trong niềm hạnh phúc

Không là quá gần với tôi

Như hoa kia … tôi cần mưa

Dù không rõ ràng, với tôi…

Mỗi mùa rồi sẽ đổi thay

Và tôi sẽ thấy em

Khi mặt trời rạng ngời lần nữa

Khi tôi để mình chìm vào giấc ngủ

Phút giây này, tôi nguyện cầu em sẽ ôm tôi ôi người yêu dấu

Dù rằng tôi đang rất xa em

Tôi sẽ gọi thầm tên em giữa trời cao

Và tôi sẽ thức dậy trong niềm hạnh phúc

Khi tôi để mình chìm vào giấc ngủ

Phút giây này, tôi nguyện cầu em sẽ ôm tôi ôi người yêu dấu

Dù rằng tôi đang rất xa em…

Tôi sẽ gọi thầm tên em giữa trời cao

Và tôi sẽ thức dậy trong niềm hạnh phúc
Khi mặt trời rạng ngời lần nữa

Tuesday, February 17, 2009

Bỗng dưng thấy buồn, trống rỗng

Tuesday, February 10, 2009

Entry for February 10, 2009

Tháng 2!
Sài gòn bỗng nhiên đổ mưa! Có ai ngờ buổi tối tháng 2 mà nghe mưa rơi tí tách bên hiên nhà. Không gian bỗng yên ắng lạ thường! Có tiếng rao mì gõ lóc cóc trong hẻm nhà mình. Nhưng khác với không gian lúc mùa mưa là tịnh không nghe tiếng côn trùng rỉ rả, không nghe tiếng ễnh ương chàng hiu gọi nhau inh ỏi. Yên lặng quá! Nghe thấy tiếng xe máy từ ngoài đường Điện Biên Phủ vọng vào, tiếng xe container đi qua cầu rung rinh... Bây giờ lẽ ra trăng sáng, ở phòng mình tắt đèn sẽ thấy ánh trăng trong trẻo ở ngoài hiên hắt vào... vậy mà trời lại mù mây, mưa lất phất và có đứa ở không ngồi nghĩ linh tinh
Mình không biết nếu phải trải qua một sự thay đổi lớn lao nào đó như là thể chế chính trị chẳng hạn thì cuộc sống sẽ ra sao, đời mình liệu có trải qua một điều như thế? Mình lại nghĩ về cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn, người đã từng trải qua bao nhiêu đổi thay của thời cuộc, bao nhiêu thể chế chính trị. Nghe và xem ông nói, cảm thấy cuộc sống sóng gió ấy vẫn dung dị bình thường. Có ai ngờ cái đời sống mình đang sống và coi nó là thân quen lại là một biến cố, lại là một đời sống khác đối với những người khác, ta vẫn thấy họ sống bình thường, vẫn thích nghi với đổi thay của thời cuộc nhưng cái nhìn lại là một cái nhìn khác hẳn với ta, và những nỗi niềm riêng không ai biết.
Rồi mọi thứ sẽ đến khi phải đến, mình sẽ buộc phải khác khi đời dạy ta phải thế!

Thursday, January 15, 2009

Entry for January 15, 2009

Làm kiệu chua ngọt thế nào cho ngon? Món này cũng có nhiều dị bản khác nhau. Nhà mình thì làm kiểu này:
- Đầu tiên là chọn kiệu. Chọn kiệu rất quan trọng, nếu chọn nhằm kiệu non thì thế nào cũng rất dễ bị mềm nhũn, không giòn. Mẹ bảo ngoài chợ mấy bà bán 3 loại kiệu, kiệu Huế, kiệu Nha Trang và kiệu Bình Dương. Thực ra thì còn nhiều nơi trồng kiệu lắm như Hóc Môn, Bình Định... nhưng túm lại là kiệu trồng ở đất cát thì ngon hơn vì cây kiệu rất thích hợp với đất có nhiều cát, thoát nước nhanh. Kiệu trồng đất cát chắc hơn và thơm hơn có lẽ vì chứa ít nước chăng? Nhìn bên ngoài, kiệu đất cát không lớn con bằng, nhưng rờ thì có cảm giác chắc tay hơn, phần cuống sát củ nhỏ thanh mảnh kiểu như thắt đáy lưng ong.
- Chọn được kiệu rồi thì đến giai đoạn ngâm kiệu. Ngâm kiệu trong nước tro hoặc nước muối là để cho bớt hăng và chắc kiệu. Nếu ngâm tro thì ngâm theo tỷ lệ 1 kg kiệu + một bát/chén ăn cơm tro củi + nước vừa ngập kiệu, ngâm qua đêm. Nếu ngâm muối thì 1kg kiệu + một muỗng canh muối + nước vừa ngập kiệu. Ngâm bằng muối thì vớt sớm, chừng 2,3 h thôi, ngâm lâu kiệu cũng sẽ dễ bị nhũn. Ngâm xong thì rửa sạch, trong lúc rửa bỏ bớt một, hai lớp vỏ kiệu ngoài xấu xí đi.
- Phơi khô bằng nắng tốt trong 1 ngày
- Lột bỏ lớp vỏ kiệu xấu xí còn sót, cắt rễ cắt cuống. Cắt rễ đừng cắt quá phạm cũng dễ làm kiệu bị nhũn, chỉ cắt vừa sạch rễ thôi.
- Đâu đó xong xuôi bắt đầu chuẩn bị ngâm kiệu. Cứ 3kg kiệu thì cho 1 kg đường + một chút muối --> sóc đều, phơi nắng cho tan hết đường. Sau khi đường đã tan hết thì sắp vào hũ nhỏ khô sạch, làm siêng thì sắp từng củ từng củ vòng tròn quanh hũ, tùy ý thêm ớt khô, tỏi xắt lát mỏng hay vài miếng cà rốt tỉa bông tỉa hoa cho xôm tụ, đậy kín để dành ăn. Khoảng 5 -7 ngày kiệu đã lên men vừa chua chua ngọt ngọt, có thể ăn được rồi. Nếu muốn nhanh thì pha dấm với đường, muối, tỷ lệ 1 dấm+1 đường+ một chút muối đun sôi để nguội rồi đổ vào hũ kiệu ngâm.
Nói chung các tỷ lệ đều không cố định, có thể gia giảm tùy theo khẩu vị của từng người, ví như bạn muốn pha dấm đường để ngâm kiệu điều quan trọng là đủ độ chua ngọt cho kiệu vừa miệng, nó lại cũng phụ thuộc vào việc bạn dùng loại dấm nào để pha, dấm có nồng độ acid acetic cao thì phải giảm lượng giấm lại. Đun sôi là để diệt hết vi khuẩn có thể làm hư hũ kiệu của bạn, nhưng nhớ phải để nguội mới cho vào không thì chín nhũn hết cả kiệu ra.

Saturday, January 10, 2009

Entry for January 10, 2009

Chiều nay, xóm mình lặt lá mai, người bắc ghế, người lom khom bên những gốc mai. Trong nắng gió buổi chiều, những lớp lá mai lao xao làm trong lòng rộn rạo gì đâu. Nhớ năm ngoái...

Tối, đi cà phê, hỏi bạn bè lặt lá mai chưa, lại được nghe những câu chuyện xưa xửa xừa xưa về chuyện lặt lá mai. Lặt lá mai là chuyện của trẻ con, người lớn chỉ đạo thôi, mà không phải trẻ con nào cũng biết lặt lá mai, đứa nào tuốt cành lặt cho lẹ là cấm cửa. Phải lặt cho khéo để không làm chết những nụ non mới nhú, từng lá từng lá một. Có những người lớn bây giờ tự hào mình từng là trẻ con lặt lá mai giỏi nhất, từng tham gia lặt lá mai cho cả xóm, lặt cây nào cây nấy trổ bông vàng rực. Trong ký ức của người lớn, Tết là sân nhà đầy những cánh mai vàng hòa trong xác pháo hồng, là hương hoa mai thoang thoảng và ty tỷ thứ "hầm bà lằng xán cấu"...

Ký ức của người khác bao giờ cũng khiến mình cảm thấy cuộc sống này thật là sống động. Cứ như thể cảm xúc của họ đang truyền sang! Mình nghĩ tới những điều ta không bao giờ cảm thấy nhưng đối với người khác lại vô cùng đặc biệt và quan trọng! Mọi thứ trên đời xảy ra thảy đều có ý nghĩa riêng của nó, chỉ là có cảm nhận được hay không mà thôi.

Bây giờ nhìn lại những năm tháng qua, những điều vui hay buồn đều chính là những bằng chứng về cuộc sống này, thấy nhẹ nhàng vô cùng và sẵn sàng đón chờ những điều sắp tới, luôn có những điều không thể nào đoán trước và thấy mình đang hạnh phúc biết bao!


Sunday, January 4, 2009

Entry for January 04, 2009

Holidays

(Michel Polnareff)

Holidays, Oh holidays

C'est l'avion qui descend du ciel

Et sous l'ombre de son aile
Une ville passe
Que la terre est basse
Holidays

Holidays, oh holidays
Des églises et des HLM
Que fait-il le Dieu qu'ils aiment?
Qui vit dans l'espace
Que la terre est basse
Holidays

Holidays, Oh holidays
De l'avion, l'ombre prend la mer
La mer comme une préface

Avant le désert
Que la mer est basse
Holidays

Holidays, Oh holidays
Tant de ciel et tant de nuages
Tu ne sais pas à ton âge
Toi que la vie lasse
Que la mort est basse
Holidays

Holidays, Oh holidays
C'est l'avion qui habite au ciel
Mais n'oublie pas, toi si belle
Les avions se cassent
Et la terre est basse
Holidays


Những ngày nghỉ


Những ngày nghỉ, ôi những ngày nghỉ

Những chuyến bay từ trời xanh

Dưới đôi cánh bay

Một xóm làng lướt qua

Mặt đất vời xa

Những ngày nghỉ


Những ngày nghỉ, Ôi những ngày nghỉ

Những nhà thờ và những chung cư nghèo

Chúa đã làm gì cho những con chiên của Người

Người ở giữa không trung

Mặt đất lại vời xa

Những ngày nghỉ


Những ngày nghỉ ôi những ngày nghỉ

Dưới đôi cánh bay là biển xanh

Biển xanh giống như khởi đầu

của hoang mạc

Biển xanh thẳm sâu

Những ngày nghỉ


Những ngày nghỉ ôi những ngày nghỉ

Bao nhiêu trời xanh và bao nhiêu mây trắng

Ở tuổi này làm sao ta biết

Cuộc sống buồn chán

Cái chết vời xa

Những ngày nghỉ


Những ngày nghỉ, ôi những ngày nghỉ

Những chuyến bay mãi thuộc về bầu trời

Bạn rất đáng yêu nhưng đừng quên

Khi máy bay gẫy cánh

Và mặt đất vời xa

Những ngày nghỉ