Thursday, February 14, 2008

Nghệ thuật nhìn thế giới


Claude Monet. The Thames at Westminster (Westminster Bridge)


Hội họa dạy ta nhìn và nhìn thấy (đó là hai việc khác nhau và họa hoằn lắm mới trùng nhau). Nhờ đó hội họa giữ được nguyên vẹn và sinh động cái tình cảm chỉ trẻ em mới có.

Alếchxanđrơ Blốc

Con người dừng lại, sửng sốt trước những cái chẳng đóng vai trò nào trong đời sống của con người: trước bóng phản chiếu không thể nào lấy được, trước những tảng đá dựng đứng mà tay người không thể nào gieo trồng được, trước màu sắc kỳ lạ của bầu trời.

Giôn Raxkin1

Có những chân lý không cần phải bàn cãi nhưng chúng thường nằm yên một cách vô ích, không giúp gì cho họat động của con người chỉ vì chúng ta lười biếng và dốt nát.

Một trong những chân lý không cần phải bàn cãi ấy có liên quan đặc biệt đối với công việc của những người viết văn xuôi. Chân lý đó là sự hiểu biết những lĩnh vực nghệ thuật hàng xóm láng giềng như thi ca, hội họa, kiến trúc, điêu khắc và âm nhạc, điều đó làm phong phú dị thường thế giới bên trong của người viết văn xuôi và làm cho văn xuôi của người đó có một sức biểu hiện đặc biệt. Nó được bồi bổ thêm ánh sáng và màu sắc của hội họa, cái tươi mát của những từ vốn thuộc thi ca, cái cân xứng của kiến trúc, sự rõ ràng, có khối hình và đường nét trong điêu khắc và nhịp điệu, tiết tấu và tính du dương của âm nhạc.

Đó là những cái làm giàu thêm cho văn xuôi, tựa như những màu sắc bổ sung cho nó.

Tôi không tin những nhà văn không yêu thi ca và hội họa. May thì họ còn là những người có trí óc lười nhác và kiêu ngạo, tệ hơn – họ là những kẻ ngu dốt.

Nhà văn không thể khinh miệt bất cứ một cái gì có thể mở rộng nhãn quan của mình đối với thế giới, tất nhiên, nếu nhà văn đó là bậc thầy nghề nghiệp chứ không phải là một anh phó nhỏ, là người sáng tạo ra vật báu chứ không phải một kẻ tầm thường, kiên nhẫn gậm nhấm cái may mắn trong cuộc đời như nhai kẹo cao su Mỹ.

Thường khi đọc xong một truyện ngắn, một truyện dài hay một cuốn tiểu thuyết trong trí nhớ của ta chẳng còn lại chút gì ngoài một đám hỗn độn những con người xám xịt. Anh có cố công thì rồi anh cũng sẽ chẳng nhìn thấy đâu bởi vì tác giả không cho họ lấy một nét sống nào.

Cả sự việc của những truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết như thế cũng xảy ra giữa một ngày lầy nhầy, không màu sắc, không ánh sáng nào đó, giữa những đồ vật tác giả có đặt tên nhưng lại không nhìn thấy và vì thế không thể để cho những người đọc chúng ta xem.

Mặc dầu đề tài thì hiện đại, những cuốn sách đó vẫn cứ cho thấy sự bất lực của nó, những cuốn sách thường thường là được viết ra với một vẻ sảng khoái giả tạo. Người ta định đánh lộn sòng nó với niềm vui, đặc biệt là niềm vui lao động.

Nguyên nhân của quang cảnh chán ngán đó không phải chỉ đơn thuần là sự nghèo nàn cảm xúc và sự kém học thức của tác giả, mà còn do cái nhìn lờ đờ lòai cá của anh ta.

Chúng ta muốn đập tan những truyện dài và những cuốn tiểu thuyết ấy như đập tan những cửa kính dán kín 2 trong một gian phòng ngột ngạt và bụi bậm để những mảnh thủy tinh vỡ bay ra với một tiếng động giòn tan và ngay đấy, từ bên ngòai sẽ ùa vào phòng: gió, tiếng mưa rơi, tiếng trẻ con í ới, còi tàu thủy, lấp lóang của con đường nhựa ướt – cả cuộc đời xô vào với cái hỗn độn của nó, nếu như mới thoạt nhìn, và với cái sặc sỡ tuyệt đẹp của ánh sáng, màu sắc và tiếng động.

Ở nước ta có rất nhiều cuốn sách tưởng chừng do người mù viết. Sách ấy lại nhằm cho những người sáng đọc, và trong chuyện đó ta thấy tất cả cái lố bịch của việc xuất bản những cuốn sách như vậy.

Muốn sáng mắt ra, không phải chỉ cần nhìn đủ mọi phía. Phải học cho được cách nhìn. Chỉ những ai yêu con người và đất đai mới có thể nhìn được chúng. Văn xuôi nhàm và vô vị thường là do hậu quả của dòng máu lạnh của nhà văn, cái dấu hiệu đe dọa đáng sợ của bệnh chết mòn trong anh ta. Nhưng đôi khi đó chỉ là cái vụng về chứng tỏ một sự thiếu văn hóa. Như thế thì, như người ta thường nói, còn vớt vát được.

Các họa sĩ có thể dạy chúng ta cách nhìn và cách tiếp nhận ánh sáng, màu sắc. Họ nhìn giỏi hơn chúng ta. Và họ biết ghi nhớ những gì họ đã nhìn thấy.

Khi tôi còn là một nhà văn ít tuổi, một họa sĩ quen biết đã nói với tôi:

- Anh bạn ạ, anh nhìn còn chưa được rõ. Cái nhìn của anh hơi đục. Và thô kệch. Căn cứ vào những truyện ngắn của anh thì anh mới nhận xét được những màu chính, còn những độ chuyển tiếp và những tiểu dị thì lẫn vào nhau thành một cái gì đó đơn điệu.

- Biết làm thế nào được! Mắt tôi nó như vẫy – tôi trả lời, tự bào chữa.

- Nói nhảm! Người ta có thể tạo ra được con mắt tốt. Đừng có lười, hãy rèn con mắt đi. Bắt nó phải vào khuôn phép. Anh cứ thử bỏ ra một hoặc hai tháng để nhìn mọi vật với ý nghĩa là anh bắt buộc phải vẽ những cái đó bằng màu. Trong xe điện, trong xe buýt, ở đâu cũng thế, anh phải nhìn con người đúng theo cách ấy. Và chỉ qua vài ba ngày là anh đã thấy rõ rằng trước kia trên mặt mọi người anh chỉ nhìn không được lấy một phần mười những gì bây giờ anh thấy. Còn qua hai tháng thì anh sẽ học được cách nhìn và không càn phải ép buộc mình làm việc đó nữa.

Tôi nghe học sĩ nọ và quả nhiên người và vật đúng là đã trở thành thú vị hơn nhiều so với khi tôi còn nhìn họ vô cùng hấp tấp và lướt qua.

Và tôi tiếc vô cùng khỏang thời gian mà tôi đã ngu ngốc để mất. Tôi có thể nhìn thấy biết bao cái đẹp, tuyệt vời trong những năm qua, nếu như tôi biết nhìn! Biết bao điều thú vị đã qua đi, không trở lại và chẳng có tài nào làm cho chúng tái sinh.

Đó là bài học đầu tiên mà họa sĩ đã cho tôi. Bài thứ hai còn sáng rõ hơn.

Một lần vào mùa thu tôi từ Matxcơva đi Lêningrát nhưng không qua Klinin và Bôlôgôriê mà đi từ ga Xavelôpki qua Kalyazin và Khơvôinaya.

Nhiều người Matxcơva và Lêningrát cũng chẳng ngờ rằng có con đường ấy. Tuy nó có xa hơn, nhưng lại thú vị hơn con đường thông thường qua Bôlôgôriê. Thú vị hơn ở chỗ con đường chạy qua những miền hoang vắng và nhiều rừng.

Bạn đường của tôi là một người nhỏ bé với đôi mắt ti hí nhưng lại rất sinh động. Ông vận bộ quần áo lụng thụng, mang theo một hòm lớn đựng sơn dầu và những cuộn vải gai. Trông ông ai cũng biết ngay là một họa sĩ.

Chúng tôi nói chuyện. Ông bạn đường của tôi nói rằng ông đi đến vùng gần thị trấn Chikhơvin, ở đó có một người bạn làm nghề kiểm lâm và ông sẽ ở vùng ông bạn trông coi để vẽ mùa thu.

- Sao mà ông lặn lội xa thế, mãi gần Chikhơvin ? – tôi hỏi.

Họa sĩ trả lời một cách đáng tin cậy:

- Ở đó tôi đã quan sát kỹ và chọn được một vùng. Vùng này đẹp tuyệt! Đố ông tìm được một vùng thứ hai như thế. Một khu rừng tòan liễu hoàn diệp. Đôi chỗ lác đác vài cây thông. Liễu hoàn diệp mặc cho mùa thu một bộ quần áo đặc biệt tao nhã, không có giống cây nào như thế. Lá liễu đủ màu. Đỏ thắm, vàng chanh, tím và cả màu đen lấm tấm vàng. Dưới ánh sáng mặt trời nó biến thành một đống lửa trại. Tôi làm việc ở đây cho đến mùa đông, còn đông rồi thì tôi sang bờ vịnh Phần Lan quá Lêningrát. Ở đó, ông phải biết, băng bụi(3) đẹp nhất nước Nga. Chưa nơi nào tôi nhìn thấy thư băng bụi như vậy.

Tôi nói, tất nhiên là nói đùa, rằng với những hiểu biết như vậy, ông bạn đường của tôi có thể viết một cuốn sách dẫn đường quý giá cho các họa sĩ, chỉ cho họ đi đâu, vẽ gì.

Họa sĩ nghiêm trang trả lời:

- Thế ông cho rằng không được sao! Viết cái đó thì không khó. Nhưng không cần. Mọi người sẽ bâu vào một chỗ trong khi hiện nay mọi người đang tìm cái đẹp riêng biệt. Điều đó tốt hơn nhiều.

- Vì sao?

- Đất nước sẽ phơi ra muôn mặt hơn. Trên đất Nga có không biết bao nhiêu cái đẹp đủ dùng cho tất cả các họa sĩ trong hàng nghìn năm. Nhưng ông ạ – ông nói với vẻ lo lắng – hình như con người bắt đầu dày xéo và làm kiệt quệ đất đai nhiều quá rồi đấy. Mà sắc đẹp của đất đai lại là một điều thiêng liêng, một điều vĩ đại trong đời sống xã hội chúng ta. Nó là một trong những mục đích cuối cùng của chúng ta. Không biết ông thế nào, chứ tôi thì tôi tin chắc như vậy. Không hiểu được điều đó không phải là một người tiên tiến.

Ban ngày tôi ngủ thiếp đi nhưng ông bạn hàng xóm đã dựng tôi dậy.

- Xin ông đừng giận – ông bối rối nói – nhưng ông dậy đi thì hơn. Một bức tranh kỳ diệu đang mở ra: cơn giông tháng chín. Ông trông kìa!

Tôi trông ra ngoài cửa sổ tàu. Ở phía Nam, một đám mây đen nặng nề và cao, choán hết nửa bầu trời, đang nhô lên. Những ánh chớp co kéo, giật giật nó.

- Mẹ ơi! – ông họa sĩ kêu lên – Biết bao là màu sắc! Không có thể nào vẽ nổi cái ánh sáng như thế này, dù anh là Lêvitan(4) đi chăng nữa.

- Ánh sáng nào? – Tôi cuống quýt hỏi.

- Trời ơi! – họa sĩ nói với vẻ tuyệt vọng – Ông nhìn đi đâu thế kia? Kia kìa, ông thấy không, ở đó, rừng tối đen và yên lặng, đó là do bóng mây trùm lên nó. Còn kia, xa hơn một chút, trên rừng có những vết vàng bệch và hơn xanh lục: đó là tại ánh sáng mặt trời bị mây cả. Còn ở đàng xa thì rừng hoàn toàn phơi mình trong nắng. Ông thấy chưa? Cả khu rừng như đúc bằng vàng mười. Và trong suốt. Một lọai tường bằng vàng có hoa văn. Hay là một chiếc khăn tay kéo dài suốt chan trời, chiếc khăn do những cô thợ thêu bậc thầy trong vùng Chikhơvin của chúng tôi thêu ở các xưởng làm đồ kiem tuyến. Bây giờ ông hãy trông gần đây, những dải thông kia kìa. Ông có thấy cái ánh đồng thau lấp lánh trên những lá nhọn không? Đó là do bức tường vàng của rừng mà có. Anh sáng của bức tường vàng hắt lên những ngọn thông. Anh phản chiếu. Vẽ nó rất khó. Dễ làm nó thô đi lắm? Còn kia, ông thấy không, kia chỉ có ánh sáng tỏa yếu ớt, tôi muốn nói ánh sáng chiếu xuống dịu dàng đến nỗi cần phải có một bàn tay thật bình tĩnh và trung thành mới truyền đạt nổi nó.

Họa sĩ nhìn tôi và cười.

- Ánh phản chiếu từ rừng thu hút lại mạnh thực! Cả căn phòng trong toa bừng lên, một màu hồng. Nhất là trên mặt ông. Giá cứ vẽ ông như thế này. Nhưng tiếc thay, tất cả những cái đó chỉ thoáng qua trong giây lát mà thôi.

Tôi nói:

- Công việc của họa sĩ chính là ở chỗ đó: bắt những vật thoảng qua phải dừng lại trong nhiều thế kỷ.

Họa sĩ trả lời:

- Chúng tôi sẽ cố gắng. Nếu cái thoảng qua ấy không đến với chúng tôi quá đột ngột như lúc này. Nói cho đúng, họa sĩ không bao giờ được rời màu vẽ, vải gai và cây bút lông. Các ông, những nhà văn, các ông có nhiều thuận lơi hơn. Những màu sắc đó các ông mang trong trí nhớ. Trông kìa, sao mọi vật biến đổi nhanh chóng đến thế ? Kìa, rừng lúc thì bừng sáng lúc thì chìm trong bóng tối.

Những dải mây trắng rách rưới đằng trước đám mây đen của cơn giống chạy về phía chúng tôi và sức chuyển động vùn vụt của chúng quả đang trộn lẫn mọi màu trên mặt đất. Cái sự lẫn lộn của các màu: đỏ thẫm, vàng nguyên chất và vàng trắng, màu xanh lá mạ, màu tím, và màu bóng tối xanh lam đã bắt đầu ở những cánh rừng xa.

Thỉnh thoảng một tia nắng xuyên qua mây đen rọi xuống từng vòm bạch dương làm chúng vụt sáng, cái nọ nối tiếp cái kia, như là những ngọn đuốc vàng, nhưng lại tắt ngay. Gió trước cơn giông thổi mạnh từng đợt càng làm cho màu sắc hỗn độn thêm.

- Ôi bầu trời mới đẹp làm sao! – họa sĩ kêu lên – Ông trông! Có còn màu gì mà nó chẳng tạo ra nữa kia chứ!

Vầng mây đen của cơn giông cuồn cuộn bốc khói xám nhờ và nhanh chóng sà xuống mặt đất. Cả vầng mây chỉ có độc một màu đá đen đơn điệu. Nhưng mỗi tia chớp lóe sáng lại làm lộ ra những cột lốc xoáy lên cao màu vàng dữ tợn, những hốc xanh và những vết nứt rạn ngòng nghèo được một thứ lửa hồng đục soi tỏ từ trong.

Ánh lóe sắc của những làn chớp khi ở sâu trong vầng mây đen lại biến thành đám cháy màu hồng đỏ. Ở gần mặt đất hơn, trong khoảng giữa mây đen và rừng cây, những dải mưa rào đã đổ xuống.

- Thế là hết – họa sĩ xúc động kêu lên – Cái cảnh hỗn độn này ta chẳng được thấy luôn đâu!

Tôi cùng ông rời cửa sổ trong phòng ra ngoài cửa sổ hành lang toa tàu. Những bức rèm cửa run lên cầm cập trước gió càng làm ánh sáng lấp loáng thêm.

Mưa rào trút xuống. Người phụ trách toa hấp tấp hạ hết cửa xuống. Những sợi nước mưa xiên xiên chảy thành dòng trên mặt kính. Anh sáng đã tắt hẳn, chỉ ở đàng xa, xa lắm, mãi tận chân trời, qua bụi mưa, là còn một dải rừng mạ vàng cuối cùng cháy sáng.

Họa sĩ hỏi tôi:

- Ông còn nhớ được gì không?

- Đôi chút thôi.

- Và tôi cũng chỉ nhớ được đôi chút thôi! – ông buồn rầu ói – Tạnh mưa, màu sắc sẽ đậm hơn. Ông biết không, nắng giỡn trên lá và thân cây. Nói chung, ông hãy để ý nhìn ánh sáng vào một ngày ảm đạm trước cơn mưa. Trước cơn mưa nó một khác, trong cơn mưa một khác, còn sau cơn mưa thì lại hoàn toàn khác hẳn. Bởi vì những lá ướt làm cho không khí có một ánh sáng lấp lánh yếu ớt. Cái ánh lấp lánh đó xám, mềm và ấm. Nói chung nghiên cứu màu sắc và ánh sáng là một khoái lạc, ông bạn thân mến của tôi ạ. Tôi thề không đổi cái nghiệp họa sĩ của tôi lấy bất cứ một thứ gì khác.

Đêm, họa sĩ xuống một ga xép. Tôi xuống sân ga chia tay với ông. Ngọn đèn lồng đốt bằng dầu hỏa tỏa sáng. Phía trước, đầu máy thở nặng nhọc.

Tôi ghen với ông bạn họa sĩ và bỗng tức giận vì những công việc bắt tôi phải đi tiếp và tôi không thể nào nán lại lấy vài ngày ở phương Bắc. Ở đây mỗi cành thạch thảo cũng có thể gợi lên đủ ý cho vài bài thơ bằng văn xuôi.

Không thể hiểu được vì sao mà trong đời tôi, cũng như bất cứ ai khác, tôi đã không cho phép mình được sống theo tiếng nói của trái tim, mà cứ bận bịu với những công việc tưởng chừng không thể nào trì hoãn được.

Màu sắc và ánh sáng trong thiên nhiên không phải chỉ cần quan sát mà giản đơn là phải sống bằng chúng. Trong nghệ thuật, chất liệu dùng được chỉ có thể là chất liệu đã chiếm được một chỗ trong trái tim.

Hội họa quan trọng đối với người viết văn xuôi không phải chỉ ở chỗ nó giúp cho nhà văn nhìn thấy và yêu mến màu sắc, ánh sáng. Hội họa còn quan trọng ở chỗ họa sĩ thường nhận thấy cái mà chúng ta không nhìn thấy. Chỉ sau khi xem xong tranh của người vẽ chúng ta mới bắt đầu nhận ra cái đó và ngạc nhiên không hiểu sao trước kia chúng ta lại không nhận ra.

Họa sĩ Pháp Mônê(5) đến Lơnđơn và vẽ tu viện Uétminxtơ. Mônê vẽ trong một ngày sương mù bình thường ở Lơnđơn. Trong bức tranh của Mônê những đường nét gô- tích của tu viện chỉ hơi mờ mờ chọc thủng màn sương. Bức tranh vẽ thật điêu luyện.

Khi bức tranh được đưa ra trưng bày, nó đã gây ra một mối kinh hoàng trong những người dân Lơnđơn. Họ sửng sốt vì sương mù trong tranh Mônê lại vẽ bằng màu đỏ thắm, trong khi các sách giáo khoa cũng viết rõ rằng sương mù có màu xám.

Sự ngang ngược của Mônê lúc đầu làm người ta công phẫn. Nhưng những người công phẫn kia bước ra phố, nhìn kỹ sương mù và lần đầu tiên họ nhận thấy nó quả có màu đỏ thắm.

Lập tức người ta đi tìm cách giải thích điều đó. Rồi người ta đồng ý với nhau rằng sắc đỏ của sương mù phụ thuộc vào độ dày đặc của khói. Ngoài ra những ngôi nhà gạch đỏ ở Lơnđơn đã làm cho sương mù có màu như thế.

Nhưng dù sao mặc lòng, Mônê đã thắng. Sau khi có những bức tranh của ông, mọi người đã bắt đầu thấy sương mù Lơnđơn giống sương mù mà họa sĩ đã thấy. Đến nỗi người ta đặt biệt hiệu cho Mônê là “người sáng tạo ra sương mù thành Lơnđơn”.

Nếu kể đến những thí dụ trong đời tôi thì lần đầu tiên tôi được nhìn thấy tất cả cái muôn màu muôn vẻ của màu sắc lúc trời mưa ở nước Nga là sau khi xem bức “Trên sự yên tĩnh đời đời” của Lêvitan.

Truớc đó tôi thấy, trời mư a chỉ có độc một màu đáng ngán. Cả cái buồn lúc trời mưa, theo tôi nghĩ hồi đó, bộc lộ ra ở chỗ nó ăn hết mọi màu và phủ một màng đục lên trên mặt đất.

Nhưng Lêvitan lại nhìn thấy trong cái đáng ngán ấy một sắc thái cao cả, một sắc thái uy nghi nữa là khác. Và ông tìm thấy trong cái đáng ngán ấy rất nhiều màu nguyên tuyền. Từ đó trời mưa thôi không đè nặng lên tôi. Ngược lại, tôi còn thú nó vì không khí trong sạch, vì lạnh, khi má ta nóng rực, vì những gơn lăn tăn màu thiếc trắng trên những mặt sông, vì những đám mây nặng nề xê dịch. Cuối cùng, còn vì trong lúc trời mưa ta bắt đầu quý những sự tốt lành bình dị trên trái đất: căn nhà gỗ ấm áp, ngọn lửa trong chiếc lò sưởi Nga, tiếng ấm Xamôva reo, ổ rơm khô phủ vải gai trên sàn, tiếng mưa rơi trên mái ru ta ngủ, và giấc mơ màng êm ả.

Hầu như mỗi nghệ sĩ, dù ở thời đại nào và thuộc trường phái nào, cũng đều vạch cho ta thấy những nét mới của thực tại.

Tôi có cái may mắn được thăm nhà triển lãm hội họa Đrexđen vài lần.

Ngoài Đức Mẹ Xichxtin của Raphen (6), ở đó còn có rất nhiều tranh của các bậc thầy xưa, trước tranh của họ mà không dừng lại thì thật nguy hiểm. Những bức tranh ấy không buông tha ta. Ta có thể nhìn chúng hàng giờ, có khi hàng ngày và nhìn chúng càng lâu thì mỗi xúc động khó hiểu trong tâm hồn ta càng lớn. Nỗi xúc động ấy dâng cao đến mức con người khó mà cầm được nước mắt.

Tại sao lại có những giọt nước mắt không rơi ấy? Vì rằng trong những bức tranh kia có cả cái tòan thiện, toàn mỹ của tinh thần và quyền lực của thiên tài là cái buộc ta hướng về sự trong sạch, sức mạnh và cái cao thượng của những nguyện vọng của mình.

Trong việc thưởng ngọan cái tuyệt mỹ xuất hiện nỗi lo lắng, nó báo trước sự tẩy rửa nội tâm của chúng ta. Hình như tất cả cái tươi mát của những cơn mưa, những làn gió, hơi thở của đất đai khai hoa, bầu trời nửa đêm và những giọt nước mắt chảy ra vì tình yêu đều nhập vào trái tim biết ơn của chúng ta và vĩnh viện chiếm lĩnh nó.

Hình như những người theo chủ nghĩa ấn tượng làm cho ánh sáng mặt trời mạnh thêm. Họ vẽ ngoài trời và, đôi khi, có lẽ họ đã cố ý làm cho màu sắc đậm hơn. Cái đó làm đất đai trong những bức tranh của họ xuất hiện trong một ánh sáng hân hoan.

Đất đai trở thành đất đai ngày hội. Trong việc đó không có gì là tội lỗi, bởi vì không có tội lỗi trong tất cả những gì đem lại thêm cho con người dù chỉ là chút ít niềm vui.

Chủ nghĩa ấn tượng là của chúng ta, cũng như tất cả những di sản giàu có khác của quá khứ. Bỏ nó đi có nghĩa là ta tự đẩy ta đến chỗ hẹp hòi một cách có ý thức. Chúng ta không thể vứt bỏ “Đức Mẹ Xichxtin” của Raphaen mặc dầu bức tranh đã được sáng tác theo đề tài tôn giáo. Chúng ta không ngu ngốc đến nỗi không còn biết đâu là ranh giới giữa thiên tài của hội họa với tôn giáo. Tôi không nghĩ rằng có thể có một người xô viết nào đó vì ngợi khen “Đức Mẹ Xichxtin” mà bỗng chốc trở thành con chiên của đạo Chúa. Cái vô lý của ý nghĩ đó rất rõ. Tại sao chúng ta lại đi quan tâm một cách nghiêm túc đến những ý nghĩa tức cười khi vấn đề động chạm đến những nhà ấn tượng chủ nghĩa. Picátxô(7), người luôn nghĩ đế cách đổi mới, có nguy hiểm gì cho chúng ta? Và những nhà ấn tượng chủ nghĩa Matitxơ (8), Vangốc hoặc Gôganh(9)? Tiện đây cũng xin nói rằng Gôganh là người đã đứng vào cuộc đấu tranh chống chính quyền thực dân Pháp vì nền độc lập của dân tộc Tahiti.

Chuyện đó có gì xấu và nguy hiểm? Những bộ óc đố kỵ hoặc cơ hội nào dám nghĩ rằng cần thiết phải sổ toẹt lớp họa sĩ xuất sắc và tài năng ra khỏi nền văn hóa nhân lọai và nền văn hóa chúng ta nói riêng?

Sau cuộc gặp gỡ trên tàu với ông bạn họa sĩ, tôi tới Lêningrát. Trước mắt tôi lại mở ra cái quần thể trang trọng của những quảng trường và những tòa nhà cân đối trong thành phố.

Tôi ngắm nghía chúng rất lâu, cố tìm ra điều bí mật trong kiến trúc của chúng. Bí mật đó là ở chỗ những tòa nhà cho ta ấn tượng về cái hùng vĩ mà trong thực tế chúng lại chẳng lấy gì làm lớn cho lắm. Một trong những công trình tuyệt mỹ đó là nhà bộ Tổng tham mưu kéo một vòng cung đều đặn trước điện Mùa Đông chiều cao không quá một tòa nhà 4 tầng. Thế mà nó còn hùng vĩ hơn bất cứ tòa nhà chọc trời nào ở Mátxcơva.

Lời giải câu đố rất đơn giản. Cái hùng vĩ của những tòa nhà sở dĩ mà có là do sự cân xứng, những tỷ lệ ăn nhịp với nhau và một số nhỏ vật trang hòang: những viền cửa gỗ, những xoáy ốc trang trí và phù điêu.

Nếu ta nhìn kỹ những tòa nhà ấy, ta sẽ hiểu rằng óc thẩm mỹ tốt trước hết chính là ý thức chừng mực.

Tôi tin rằng những định luật trên về cái cân xứng giữa các phần, sự lọaibỏ tất cả những cái thừa không cần thiết; một ít vật trang hoàng, cái giản đơn trong đó mỗi đường nét nổi lên rõ ràng và cho ta một khóai cảm – tất cả những cái đó có liên quan ít nhiều đến cả văn xuôi.

Nhà văn đã yêu cái tòan thiện toàn mỹ của những hình thức kiến trúc cổ điển không bao giờ để cho lối bố cục vụng về và nặng chịch có mặt trong văn mình. Nhà văn đó sẽ đạt tới sự cân xứng của các phần và sự nghiêm khắc của bức vẽ bằng lời. Nhà văn đó sẽ tránh sự thừa của những vật trang hoàng làm loãng văn xuôi – tức là thứ bút pháp người ta gọi là bút pháp trang trí.

Bố cục của một tác phẩm vă xuôi phải đạt tới mức không thể bỏ đi hoặc thêm vào một chút gì mà không làm hỏng đi ý nghĩa của câu chuyện và dòng đi hợp quy luật của các sự kiện.

Bao giờ cũng vậy, tôi dùng hầu hết thời gian ở Lêningrát vào việc xem viện bảo tàng Nga và viện bảo tàng Ecmitagiơ.

Bóng tối yếu ớt với ánh sáng mạ thẫm mầu trong những gian trưng bày ở Ecmitagiơ đối với tôi thật là thiêng liêng. Tôi bước vào Ecmitagiơ như bước vào kho thiên tài của nhân loại.

Trong viện bảo tàng Ecmitagiơ, lần đầu tiên, khi còn là một thanh niên, tôi đã cảm thấy hạnh phúc làm người. Và hiểu rằng con người có thể trở nên vĩ đại và tốt đẹp.

Lúc đầu tôi cứ bị lạc giữa cái đám diễu hành lộng lẫy của các họa sĩ. Tôi chóng mặt vì màu sắc quá nhiều và dày đặc, và để nghỉ ngơi, tôi bỏ ra gian trưng bày tượng.

Tôi ngồi ở đó rất lâu. Và càng nhìn những bức tượng của những nhà nặn tượng vô danh Hy – lạp hoặc tượng của những người đàn bà tủm tỉm cười của Canôva tôi càng hiểu rõ thêm rằng tất cả những tác phẩm điêu khắc nọ chính là lời kêu gọi con người đi tới cái tuyệt mỹ và nó là điề m báo trước buổi bình minh trong sáng nhất của nhân loại. Lúc đó thi ca sẽ ngự trị trên những trái tim, và chế độ xã hội – chế độ mà chúng ta đang vượt qua những năm lao động, lo lắng và căng thẳng trong tâm hồn để đi tới – sẽ được xây dựng trên cái đẹp của chính nghĩa, cái đẹp của trí tuệ và trái tim, của những quan hệ giữa người với người và của thân thể con người.

Đường ta đi sẽ dẫn tới một thời đại hoàng kim. Thời đại đó sẽ đến. Tất nhiên, đáng giận là chúng ta không được sống tới ngày ấy. Nhưng chúng ta phải cảm thấy hạnh phúc khi ngọn gió thời đại đó đã reo vang quanh ta và tim ta đập mạnh thêm.

Chả thế mà Hainơ đã tới viện bảo tàng Lơ Luvrơ ngồi hàng giờ bên bức tượng thần vệ nữ thành Milô mà khóc.

Ông khóc gì? Khóc cho cái toàn thiện toàn mỹ của con người bị nhục mạ. Khóc vì con đường đi tới cái toàn thiện toàn mỹ ấy nặng nề và xa lắc đối với cả ông, với Hainơ, người đã hiến cho mọi người chất độc và ánh sáng của trí óc mình, người đã không thể đi tới – tất nhiên – cái đất hứa (10) mà trái tim sôi nổi đã suốt đời vẫy gọi.

Sức mạnh của nghệ thuật điêu khắc ở trong đó, cái sức mạnh nếu không có ngọn lửa bên trong của nó thì không thể nào có nghệ thuật tiền tiến, nhất là nghệ thuật của đất nước chúng ta. Cũng như vậy không thể có được cả nên văn xuôi vững chắc.

Trước khi nói đến ảnh hưởng của thi ca đối với văn xuôi, tôi muốn nói vài lời về âm nhạc, hơn nữa âm nhạc và thi ca thường rất gắn bó với nhau.

Đề tài cuộc nói chuyện ngắn ngủi về âm nhạc buộc phải giới hạn trong cái mà chúng ta gọi là tiết tấu và nhạc tính của vă xuôi.

Trong văn xuôi chân chính bao giờ cũng có tiết tấu của nó.

Trước hết tiết tấu của văn xuôi đòi hỏi sự phân bố từ sao cho người đọc có thể tiếp nhậ câu văn không bị căng thẳng, tiếp nhận gay tức khắc: Tsêkhốp đã nói về điều đó khi viết thư cho Gorki “Văn phải được xếp gọn (vào trong ý thức người đọc) ngay lập tức, trong một giây”.

Không thể để cho người đọc phải ngừng lại trên tác phẩm để khôi phục sự chuyển động của các từ, sự chuyển động thích ứng với tính chất đọan này hay đọan khác trong văn xuôi.

Nói chung nhà văn cần phải giữ người đọc trong tình trạng căng thẳng, dẫn người đọc đi theo mình và không thể trong vă bài của mình còn những chỗ tối nghĩa và không có nhịp điệu để người đọc vấp phải những chỗ đó rồi vượt ra ngòai quyền lực của nhà văn.

Nhiệm vụ của nhà văn và hiệu lực của văn xuôi là ở chỗ căng thẳng ấy, ở sự lôi cuốn người đọc, ở chỗ làm sao bắt được người đọc cảm nghĩ giống nhà văn, cùng với nhà văn.

Tôi nghĩ rằng không bao giờ có thể đạt được tiết tấu của văn xuôi bằng con đường nhân tạo. Tiết tấu của văn xuôi phụ thuộc vào tài năng, vào cảm năng ngôn ngữ, vào cái “thính giác tốt của nhà văn”. Cái thính giác tốt ấy trong một mức độ nào đó lẫn với tai nhạc.

Nhưng cái làm cho ngôn ngữ của người viết văn xuôi phong phú nhiều hơn hết là sự hiểu biết thi ca.

Thi ca có một đặc tính kỳ lạ. Nó trả lại cho chữ cái tươi mát trinh bạch ban đầu. Những từ mờ nhạt nhất, bạc màu nhất, mà chúng ta đã “nói cạn”, nói đến cùng, đã mất sạch tính hình tượng đối với chúng ta, còn lại chẳng khác gì một cái vỏ từ, những từ ấy trong thi ca lại sáng lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương !

Giải thích cái đó ra sao, tôi không biết. Tôi cho rằng từ sống lại là trong hai trường hợp.

Một là, khi nào người ta trả lại cho nó sức mạnh ngữ âm (âm thanh). Mà làm việc đó trong thi ca thì dễ hơn trong văn xuôi nhiều. Vì thế trong bài hát và trong tình ca các từ tác động đến chúng ta mạnh hơn trong lời nói thường.

Hai là, cả đến những cái từ bạc phếch, nếu được đặt vào đội ngũ âm nhạc êm ái trong một bài thơ thì hình như nó được no nê âm điệu du dương của câu thơ và bắt đầu vang vang trong sự hài hòa cùng với những từ khác.

Và cuối cùng là thi ca phong phú phép điệp vận (11). Đó là một trong những tính chất quý báu của nó. Văn xuôi cũng được quyền có điệp vận.

Nhưng cái chính không phải ở chỗ đó.

Cái chính là ở chỗ kho văn xuôi đã đạt tới mức toàn thiện toàn mỹ thì về bản chất nó đã thực là thơ

Tsêkhốp cho rằng truyện Taman của Lécmôntốp và Con gái viên Đại úy của Puskin chứng minh mối liên lạc máu mủ của văn xuôi với thơ Nga đầy nhựa sống.

Prisvin đã có lần viết về mình (trong một bức thư riêng) rằng ông là “nhà thơ bị đóng đanh trên cây thập tự của văn xuôi”.

Lép Tônxtôi viết: “Tôi không bao giờ hiểu đâu là ranh giới giữa văn xuôi và thi ca”. Ông hỏi với vẻ nôn nóng hiếm có ở ông trong Nhật ký tuổi xuân:

“Vì sao thơ và văn, hạnh phúc và khổ đau lại gắn bó chặt chẽ với nhau đến thế? Phải sống thế nào đây? Cố gắng để bất thần gắn thơ và văn lại với nhau hay là thích thú với cái này, còn đối với cái kia thì có thái độ tùy tiện. Trong ước mơ có cái cao hơn thực tại. Trong thực tại có cái cao hơn ước mơ. Hạnh phúc đầy đủ là sự nối liền hai cái đó lại với nhau”.

Trong lời nói đó, mặc dầu được phát biểu một cách hấp tấp, đã thể hiện một ý nghĩ đúng đắn: hiện tượng cao hơn hết, có sức thuyết phục hơn hết, hạnh phúc chân chính chỉ có thể là sự hòa hợp hữu cơ giữa thơ và văn, hay nói một cách chính xác hơn, văn xuôi tràn đầy thực chất của thi ca, nhựa sống dồi dào của nó, cái không khí trong sáng nhất, cái quyền lực bắt người ta say mê của nó.

Trong trường hợp này tôi không ngại ngùng dùng chữ “làm người ta say mê” (nói một cách khác – “bắt làm nô lệ”). Bởi vì thơ bắt làm nô lệ, làm cho mê mẩn và bằng một cách kín đáo, nhưng với sức mạnh không gì sánh nổi nâng cao con người, đưa nó tới gần cái trạng thái khi con người thực sự trở thàh vật tô điểm cho trái đất. Hoặc nói một cách hồn nhiên nhưng chân thành như tổ tiên chúng ta, thành “chiếc mũ triều thiên của sự sáng tạo”.

Vlađimia Ođoepxki có phần đúng khi nói rằng “thi ca là điềm báo trước của một thực trạng khi nhân loại thôi không đạt tới nữa và bắt đầu sử dụng cái đã đạt được”.

(Bông hồng vàng -K. Pautovsky- Bản dịch của Kim Ân)


1 Raxkin (1819-1900) Nhà lý luận nghệ thuật, phê bình văn học và họat động xã hội danh tiếng ờ Anh

2 Mùa đông ở xứ lạnh, người ta thường dán kín các khe hở của cửa kính

3 Những ngày cực lạnh tuyết đóng thành băng nhỏ như bụi

4 Một họa sĩ danh tiếng Nga

5 Monet (1850-1926) Một danh họa Pháp thuộc phái ấn tượng

6 Một trong những danh họa lớn nhất của thế giới người Ý (1483-1520)

7, 8 , 9 Những nhà danh họa của thế giới cận đại và hiện đại

10 Đất nước mà theo kinh thánh chúa Trời đưa người Do thái từ Aicập về đấy theo lời Chúa (Palestin).

11Câu thơ có nhiều chữ cùng một mẫu tự (allitération)



Wednesday, February 13, 2008

Romance 1


(nghe bài hát)


Nhạc: Phú Quang
Thơ: Ý Nhi
Trình bày: Ngọc Anh

Em đi tìm góc xa nơi cuối vườn
Em muốn trốn sâu vào sự bình yên
Sâu mãi, sâu mãi vào tình yêu của anh

Đôi lần em nhìn tán cây
Mà ứa nước mắt vì màu xanh
Vì sự trong trẻo

Rồi em khóc, rồi em khóc
vì đốm nắng loang trên vạt cỏ
Rồi em khóc, vì gịot mưa trắng như giọt lệ
Vì viên đá dần tan trong ly nước mùa hè

Và em nhớ, và em nhớ
Về bến sông xưa một chiều
Và em nhớ giọt mưa rớt trên đầu trần
Nhớ chiếc võng xưa đơn sơ ngoài hiên vắng

Rồi em muốn được ra đi như thế
Ra đi tràn đầy biết ơn
Ra đi mà trên đôi mi đã khép
Còn lan chảy giọt nước mắt hân hoan

Có nỗi buồn nào khi những kỷ niệm đã qua sẽ qua mãi mãi, những ước mong rồi sẽ chẳng thành sự thật, nhưng cuộc sống ngoài kia cứ trôi đi, lá cây vẫn xanh, mọi thứ vẫn trong trẻo và rực rỡ , những đốm nắng sẽ vẫn cứ loang trên vạt cỏ, những viên đá sẽ vẫn cứ tan đi dưới sức nóng của mùa hè... ? Mọi thứ như là tàn nhẫn... ? Cuộc sống sẽ là như thế, mọi thứ sẽ là như thế, sẽ có những giây phút, có những giai đoạn như thế, có những lúc lòng ta như thế. Nghĩ về ngày hôm qua và tiếc nuối, nhưng trong nỗi buồn có niềm hạnh phúc đã từng được sống như thế ? Sẽ là kết thúc, là ra đi hay để bắt đầu một điều gì khác hơn...?

Tuesday, February 5, 2008

Entry for February 05, 2008


Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già...

Qua giao thừa sẽ cảm thấy hết Tết ngay thôi, vì không còn điều gì để mà chuẩn bị và trông đợi hay vì có lúc cảm thấy Tết chỉ là một chuỗi ngày chủ nhật (dù chỉ là có lúc thôi!). Ngoảnh lại nhìn những "mình" của những năm qua, đã biết bao thay đổi, cảm nhận về mọi thứ cũng thay đổi xiết bao: náo nức đã bớt dần, cái nhìn với mọi thứ cũng trở nên gần với mặt đất hơn...

Thay đổi không phải là xấu, ở mỗi gian đoạn nào đó người ta trở nên như thế vì quy luật tất yếu mà thôi. Ví như tình yêu thời tuổi trẻ thì bồng bột và lắm mê say, khi già đi có khi người ta không còn yêu như thế nữa, nhưng bù lại tình cảm đằm thắm và chín chắn nhiều hơn.

Nhưng không ai lại đi so sánh tình yêu cả, mỗi người mỗi khác, và tình yêu cũng không đứng yên, nó cùng sống với những thay đổi của hai người yêu nhau, nếu họ thay đổi không cùng nhịp, có thể tình yêu cũng ra đi.

Tự nhiên nhớ một câu hát: "Em nhớ anh có thể bởi tình yêu, hay có thể vì ngày xưa quá đẹp..." Ơ, sao tự nhiên lại lan man thế!