Thursday, September 20, 2007

Trên thùng xe tải



Tháng 7 năm 1941, tôi rời tỉnh Rưphnhitxa na Đnhetơrô đi Chiraxpôn trên một chiếc xe tải quân sự. Tôi ngồi trong ca-bin, bên cạnh người lái xe im lặng.

Bụi nâu xám cháy bỏng dưới ánh nắng cuộn lên từng vồng dưới bánh xe. Bụi nhám nháp phủ kín mọi vật chung quanh: những ngôi nhà gỗ, những cây hướng dương, những cây keo và cỏ khô.

Mặt trời bốc khói trên nền trời bạc phếch. Nước trong bi đông nóng rẫy và có mùi cao su. Tiếng súng lớn gầm thét bên kia sông Đnhetơrô.

Trên thùng xe, có mấy viên trung úy trẻ tuổi. Thỉnh thoảng họ lại đấm thình thình vào nắp ca-bin và kêu lên “Máy bay!”. Anh lái hãm xe lại, chúng tôi nhảy xuống chạy ra khỏi đường cái và nằm rạp xuống. Ngay lập tức, những chiếc máy bay đen chũi kiểu “Métxe” rú lên, khoái trá một cách độc ác, lao xuống đường.

Đôi khi máy bay địch nhìn thấy chúng tôi và xả liên thanh. Nhưng may không ai việc gì. Đạn cày lên từng cột bụi. Khi lũ “Métxe” đi rồi thì chỉ còn cảm thấy cái nóng trong toàn thân vì đất cháy bỏng, đầu ù, miệng khát.

Sau một trận bị máy bay địch bắn, anh lái bất thình lình hỏi tôi:

- Đồng chí nghĩ gì khi nằm dưới làn đạn? Đồng chí có nghĩ về quá khư không?

- Có chứ, tôi trả lới.

- Tôi cũng nghĩ về quá khứ – anh lái nói sau một lát im lặng – Tôi nhớ những khu rừng Kôxtơrôma quê tôi. Nếu sau này còn sống, tôi sẽ trở về và xin đi làm công tác kiểm lâm. Tôi sẽ đưa vợ – cô ấy đẹp và hiền lắm – và con gái theo. Chúng tôi sẽ ở cùng nhau trong trạm gác rừng. Tôi nói không biết đồng chí có tin không chứ mỗi lần nghĩ đến chuyện đó là tim tôi lại đập loạn nhịp. Mà những người lái xe thì lại không được phép đánh trống ngực như thế.

- Tôi cũng vậy thôi, - t6i đáp – Tôi cũng nhớ những khu rừng quê tôi.

Anh lái xe hỏi:

- Những khu rừng ở quê đồng chí có đẹp không?

- Đẹp, đồng chí ạ!

Anh lái xe kéo cái mũ cát-két sụp xuống trán và nhấn ga. Chúng tôi không nói thêm gì nữa.

Thực vậy, tôi chưa bao giờ nhớ những miền quê yêu dấu của tôi da diết bằng trong thời gian chiến tranh. Tôi thường nhận thấy tôi nóng ruột chờ đợi cái đêm tôi sẽ được nằm trên một chiếc xe tải ở một nới nào đó, trong một thung lũng khô trên thảo nguyên, lấy áo ca-pốt trùm kín người mà trở về những miền thân yêu ấy, trong ý nghĩa, để được đi một cách chậm rãi và an nhàn, thở hít cái không khí đượm mùi tùng bách. Tôi tự nhủ “Hôm nay ta sẽ ra Hồ Đen, còn ngày mai, nếu còn sống ta sẽ ra bờ sông Pra, hoặc đến làng Tơrêbuchinô”. Và lòng tôi thắt lại mỗi lần cảm trước thấy những chuyến đi trong tưởng tượng như vậy.

Có lần tôi đã nằm đắp áo ca pốt và tưởng tượng một cách hết sức tỉ mỉ con đường ra Hồ Đen. Hình như trong cuộc đời không thể có hạnh phúc nào lớn hơn là được nhìn thấy và đi trên những mảnh đất thân yêu ấy, quên hết những lo âu, những khổ đau và nghe tiếng con tim đập thoải mái trong lồng ngực.

Trong những ước mơ trên thùng xe ấy bao giờ tôi cũng ra khỏi làng vào lúc sáng sớm rồi theo con đường cát đi ngang những ngôi nhà gỗ cũ kỹ. Trên thành cửa sổ các nhà, hoa bóng nước nở trong những hộp sắt tây. Ở những miền đó, người ta gọi hoa bóng nước là “Vanhia ướt át”. Chắc đó là do khi ánh mặt trời chiếu qua thân cây bóng nước mập mạp và trong suốt người ta nhìn thấy cả nhựa màu lục và trong thứ nhựa ấy đôi khi còn trông rõ cả những bọt không khí.

Đến bên giếng nước, nơi các cô gái mặc áo vải hoa đi chân đất, lắm lời đụng gầu chan chát suốt ngày, tôi sẽ phải rẽ vào một cái ngõ. Ở ngôi nhà gỗ cuối ngõ có một con gà trống đẹp mã nổi tiếng khắp vùng. Nó thường đứng co một chân lên giữa trời nắng chang chang, lông sáng rực như một đống than hồng.

Nhà cửa đến ngôi nhà gỗ có con gà trống là hết và bắt đầu một dải đường sắt hẹp trông như đồ chơi trẻ con kéo thành một vòng cung đều đặn, chạy về những khu rừng xa. Lạ một cái là ở hai bên vệ đường sắt có những bông hoa chẳng giống gì những bông hoa ở các chỗ chung quanh. Không nơi nào có nhiều bụi rau diếp quăn bằng ở bên những thanh ray bỏng rẫy dưới ánh nắng.

Bên kia con đường sắt hẹp là một rừng thông mới gây. Khu rừng làm thành một bức rào chắn ngang không qua không lại được. Nói là không qua không lại được là nhìn từ đằng xa kia. Chứ anh vẫn có thể luồn qua, nhưng tất nhiên những cây thông non sẽ chọc những lá hình kim vào anh và để lại trên tay anh những vết nhựa dính bết.

Một thứ cỏ cao và khô xác mọc giữa những cây thông non, trên cát. Lá cỏ ở giữa thì bạc phếch mà ngoài rìa lại có màu lục thẫm. Cỏ sắc, chạm vào là đứt tay. Ở ngay đấy có rất nhiều hoa cúc trường sinh màu vàg, có vẩy, sột sọat trong tay và những bông cẩm chướng nức hương với những cánh tả tơi lốm đốm hồng. Dưới những gốc thông có rất nhiều nấm mới mọc. Chân nấm bám đầy cát sạch màu xám.

Sau rừng thông, là một rừng tùng bách cao lớn. Một con đường cỏ mọc chạy ven rừng.

Sau khi phải hít thở cái không khí ngột gạt của cánh rừng non mà được nằm nghỉa ngay dưới cây thông đầu tiên cành lá lòa xòa thì thật là thú vị. Ta nằm ngửa ra, cảm thấy đất mát rượi dưới lần áo mỏng và nhìn lên trời. Rồi có thể, thậm chí ta thiếp đi vì những đám mây trắng với những viền chói lọi làm cho ta buồn ngủ.

Có một từ Nga rất hay : “ixtôma” (mệt thừ). Gần đây chúng ta quên hẳn nó và không hiểu sao chúng ta ngại dùng nó. Không có từ nào hay hơn có thể xác định được cái trạng thái yên tĩnh và hơi buồn ngủ, cái trạng thái xâm chiếm anh khi anh nằm trong rừng ấm vào buổi sáng và nhìn lên những chuỗi mây vo tận. Mây ra đời ở một nơi nào trong khoảng xa xăm mờ xanh và không ngừng trôi đi đâu không rõ.

Nằm ở cửa rừng tôi thường nhớ đến những vần thơ của Briuxốp:

Hãy làm người tự do, hãy làm người cô độc

Trong yên lặng trang nghiêm của những cánh đồng

Trên con đường của ta, đường tự do, đường rộng

Chẳng cần tương lai và quá khứ cũng khkông

Ta hái hoa chơi, mấy nhành anh túc

Uống ánh mặt trời như uống mối tình đầu

Ngã xuống và chết đi trong bóng tối đêm sâu

Rồi sống dậy không niềm vui cay đắng…

Trong những vần thơ ấy, mặc dầu tác giả có nói đến cái chết, nhưng có cả cái đầy đủ của cuộc sống làm cho ta chẳng muốn gì khác ngoài việc nằm như thế này hàng giờ mà nhìn lên trời, suy nghĩ.

Con đường cỏ mọc chạy qua một khu rừng thông già. Khu rừng mọc trên những đồi cát thấp nhỏ, nhịp nhàng như những đợt sóng lớn ngòai biển. Những đồi ấy là dấu vết của những trận băng từ miền cao tràn xuống. Hoa quả chuông nở rất nhiều trên đỉnh đồi, còn ở phía dưới, dương xỉ mọc dày đặc. Mặt trái lá dương xỉ phủ đầy bào tử trông giống như những hạt bụi màu đỏ nhạt.

Rừng thông trên những ngọn đồi đều sáng. Đứng trong đó có thể nhìn được rất xa. Rừng đầy ánh sáng.

Khu rừng kéo thành một dải hẹp (chỉ độ hai cây số, không hơn), còn sau rừng là cả một bình nguyên cát, nơi những cánh đồng lúa mì đang chín, lấp lánh và lay động theo chiều gió. Đằng sau bình nguyên là một rừng tùng bách hoang dại thẳng cánh chim bay.

Những đám mây vô cùng lộng lẫy trôi trên bình nguyên. Có lẽ ta cảm thấy như vậy là vì ta nhìn thấy cả bầu trời mênh mông.

Muốn đi qua bình nguyên ấy thì phải theo con đường nhỏ mọc giữa các cánh đồng lúa mì. Trên đường ngưu bàng mọc rậm rịt và cỏ hoa chuông xanh lên từng đám.

Tất cả những gì tôi đang mường tượng mới chỉ là ngưỡng cửa của rừng. Nếu anh bước vào trong, anh sẽ cảm thấy như mình bước vào một giáo đường to lớn, hùng vĩ, tràn đầy bóng mát. Thọat đầu, anh phải theo con đường tắt hẹp đi ngang qua một cái ao phủ đầy bèo tấm giống như một chiếc thảm cứng màu xanh lá mạ. Nếu anh đứng lại bên ao, anh sẽ nghe thấy lép bép: đó là những con cá chép tìm ăn trong rong nước.

Rồi đến một cánh rừng bạch dương nhỏ, ẩm ướt, rêu phủ lóng lánh như một tấm thảm ngọc bích. Ở đó bao giờ cũng có mùi lá rụng còn lại trên mặt đất từ mùa xuân năm trước.

Sau cánh rừng bạch dương nhỏ là một nơi mà mỗi khi nghĩ đến lòng tôi không khỏi se lại.

(Tôi nghĩ đến những cảnh trên khi nằm trong thùng một chiếc xe tải. Đêm đã khuya, từ phía ga Razđenaia vẳng lại những tiếng nổ ì ầm: ở đó đang bị ném bom. Khi những tiếng nổ vừa dứt, ta lại nghe rõ tiếng ve sầu kêu một cách rụt rè, những tiếng nổ làm chúng sợ hãi và tạm thời chúng kêu khe khẽ. Một vì sao rơi như một viên đạn lửa. Tôi thấy mình đang theo dõi vì sao một cách bị động và nghe ngóng: khi nào nó sẽ nổ? Nhưng không hiểu sao nó không nổ mà lại lặng lẽ tắt ngay gần sát mặt đất. Từ đây đến cánh rừng bạch dương quen thuộc, đến những khu rừng hùng vĩ, đến nơi mà tim ta lúc nào cũng thắt lại, sao mà xa lơ xa lắc! Ở đó bây giờ cũng đang đêm, nhưng không một tiếng động, chói lọi lửa những chòm sao và không có mùi khói xăng và mùi thuốc súng – có lẽ nên gọi là “khói nổ” thì đúng hơn – mà có hương nước từ sâu thẳm trong những cái ao của rừng già và mùi lá nhọn của giống đỗ tùng).

Nơi mà mỗi khi nghĩ đến tim tôi thắt lại là nơi nào? Đó là một nơi giản dị nhất, không có gì đáng chú ý nhất. Qua cánh rừng bạch dương, con đường dựng ngược dẫn lên một sườn đồi cát dựng vách thành. Khoảng đất thấp ẩm ướt ở lại đằng sau, nhưng những làn gió nhẹ thỉnh thỏang lại thổi đến đây, đến khu rừng nóng bức và khô khan này, không khí hăng mùi i-ốt của những khu đất thấp.

Tôi nghỉ chân lầ thứ hai trên đồi và ngôi xuống đám lá nhọn nóng bỏng. Bât kỳ vật gì đây anh chạm đến đều khô và ẩm: những quả thông già rỗng, vỏ rễ thông non màu vàng, trong suốt và giòn như giấy súc, những gốc cây bị đẵn cụt được sưởi ấm đến tận lõi, từng cành thông ráp và thơm, đến cả những lá dâu tây nữa – chúng cũng ẩm ướt.

Những gốc cây cụt đã lâu đời, chỉ cần lấy tay mà bóp cũng vỡ, chúng đổ lên lòng bàn tay một đống vụn âu nóng bỏng.

Oi bức, yên lặng. Một ngày thanh thản của mùa hè chín nẫu.

Những con chuồn chuồn cánh đỏ bé nhỏ ngủ trên những gốc cây cụ. Lũ ong đất đậu trên những bông hoa họ hoa tán rắn chắc và tím nhạt. Sức nặng của chúng làm cho những bông hoa rạp mình xuống tận đất.

Tôi kiểm tra lại đường đi trên chiếc bản đồ tự vẽ lấy: từ đấy đến Hồ Đen còn 8 cây số nữa. Mọi dấu hiệu đều được ghi lại trên bản đồ này: cây thông khô xác bên đường, cọc địa giới, những bụi vệ mao, đống kiến, lại đến vùng đất thấp, nơi bao giờ cũng có hoa luu li, và sau vùng đât thấp là cây thông có khắc ở gốc một chữ “H” – Hồ. Từ chỗ cây thông phải quay thẳng vào rừng và lần theo những vết khắc đẽo vào từ năm 1932 kia. Những vết khắc mỗi năm một kín dần và bong mất vết hựa. Cần phải sửa lại.

Khi đã tìm thấy vết khắc trên cây, thể nào ta cũng phải dừng lại, lấy tay vuốt nhẹ lên nó, lên cái màu hổ phách đã đọng lại trên mình nó. Hoặc ta sẽ cạy ra một giọt nhựa rắn chắc và ngắm nghía cái chỗ vỡ có những vệt xoáy tròn giống như trôn ốc của nó. Anh nắng đùa giỡn trong đó giống như những ngọn lửa nhỏ màu vàng.

Ở gần hồ hơn, giữa rừng, bắt đầu có những chỗ trũng sâu hoắm, im lìm, những cây trăn mọc dày đến nỗi cũng chả ai nghĩ đến việc vào sâu trong những chỗ trũng ấy làm gì. Chắc ở đó xưa kia là những hồ nhỏ.

Rồi lại phải đi ngước lên giữa những bụi đỗ tùng rậm rạp quả đen và khô. Và sau rốt là dấu hiệu cuối cùng: một đôi hài xảo khô xác treo lủng lẳng trên một cành thông. Sau đôi hài xảo là một vùng cỏ hẹp kéo dài, qua nó là đến một cái dốc dựng đứng.

Rừng đến đấy là hết. Ở phía dưới có những đầm lầy khô cạn trên đó đã mọc lên một rừng nhỏ: cây trăn, liễu hòan diệp và một đám bạch dương.

Đây là chỗ nghỉ cuối cùng. Đã quá trưa. Ngày kêu rào rào như tiếng một đàn ong vô hình. Mỗi khi có một làn gió, dù rất nhẹ, thì một luồng ánh sáng mờ mờ liền đánh sóng trên khu rừng con.

Cách đấy hai cây số, giữa những đầm lầy đã khô, là nơi Hồ Đen giấu mình – đó là xứ sở của những vũng nước tối, những khúc gỗ chìm lâu ngày và những bông hoa sáng lớn màu vàng.

Đi trên những đầm lầy ấy phải cẩn thận: ở sâu dưới lần rêu vẫn chòi lên những thân bạch dương gãy mà thời gian đã mài chúng thành những cọc nhọn.

Trong khu rừng thưa không khí ngột ngạt, khó thở, xông lên mùi ung ủng, nước than bùn đen kịt kêu oàm oạp dưới chân. Cây cối ngả nghiêng, run rẩy vì mỗi bước chân người. Đi trong rừng thì đừng có nghĩa đến những cái ở dưới chân mình. Dưới lớp than bùn và đất mủn dày đến một thước là một cái hồ ngầm. Người ta nói rằng ở dưới hồ ấy có những con cá măng đầm lầy đen như than.

Bờ hồ cao hơn một chút và vì thế khô hơn dưới đầm lầy, nhưng cả ở đấu nữa ta cũng không thể đứng lâu một chỗ: thể nào nước cũng ùa vào dấu chân.

Tốt nhất là nên ra hồ vào lúc trời đã sẩm tối, khi mọi vật chung quanh – ánh lấp loáng mờ mờ của nước và của những vì sao đầu tiên mới xuất hiện, ánh sáng bầu trời sắp tắt, những ngọn cây bất động – tất cả những cái đó hòa hợp thực là chặt chẽ với cái yên lặng canh chừng, tưởng như chính yên lặng đã sinh ra chúng.

Ngồi bên đống lửa, ta nghe tiếng những cành khô nổ lép bép và nghĩ rằng sao mà cuộc đời đẹp đến thế, nếu như con người không sợ nó mà mở rộng tâm hồn ra đón nó.

Trong hồi tưởng, tôi lang thang trong những cánh rừng và sau đó trên những phố bờ sông Nhêva hoặc trên những ngọn đồi xanh rờn cây gai của đất đai khắc khổ miền Pxkốp.

Tôi đau đớn, xót xa khi nghĩ đến những nơi ấy như thể tôi đã vĩnh viễn mất chúng, như thể trong đời tôi, tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại chúng. Chắc vì cảm giác đó mà chúng đã có một vẻ đẹp kỳ lạ trong trí tôi.

Tôi tự hỏi vì sao mình đã không nhận thấy những điều đó trước kia và ngay đó, tôi hiểu ra rằng, tất nhiên trước kia tôi đã nhìn thấy tất cả, nhưng chỉ trong xa cách, tất cả những nét của phong cảnh quê hương mới xuất hiện trước cái nhìn nội tâm của tôi với tòan bộ vẻ đẹp mê hồn của chúng. Hẳn là phải đi vào thiên nhiên như mỗi âm thanh, cả đến những âm thanh nhỏ nhất, đi vào trong tiếng âm vang chung của nhạc.

Thiên nhiên chỉ tác động tới ta với toàn bộ sức mạnh của nó khi nào ta mang bản chất người của ta vào việc cảm thụ thiên nhiên, khi nào trạng thái tâm hồn ta, tình yêu của ta, niềm vui hay nỗi buồn của ta bước vào trong cái hòa hợp hoàn toàn chặt chẽ với thiên nhiên và lúc ấy thì không còn có thể nào tách rời cái tươi mát ban mai với ánh mắt người yêu, tiếng ồn đều đều của rừng với những ý nghĩ về cuộc đời mà ta đã trải.

Phong cảnh chẳng phải là gia vị cho văn xuôi và cũng chẳng phải là đồ trang sức. Cần phải ngụp đầu vào thiên nhiên như anh xục đầu vào trong đống lá ướt nước mưa và cảm thấy cái mát mẻ sang trọng của nó, mùi của nó, hơi thở của nó.

Nói một cách đơn giản hơn, ta phải yêu thiên nhiên và tình yêu ấy, cũng như bất kỳ tình yêu nào khác sẽ tìm được những con đường đúng đắn để tự thể hiện mình với một sức mạnh vũ bão nhất.

(Bông hồng vàng -K. Pautovsky- Bản dịch của Kim Ân)

Wednesday, September 12, 2007

Chuyện bình thường số 7

Nhạc sĩ: Phú Quang
Ca sĩ trình bày : Mỹ Linh

Friday, September 7, 2007

Bụi Đường Ca - Tuấn Khanh

Album mới nhất của nhạc sĩ Tuấn Khanh phát hành qua Blog của chính tác giả: http://blog.360.yahoo.com/blog-r_IsyK0_c6fdoqKGrnuIvwD95pmi8cw-?cq=1

Powered by eSnips.com

Wednesday, September 5, 2007

Mùa tựu trường

"...Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.

Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”

(Tôi Đi Học-Thanh Tịnh)

Lại một mùa tựu trường tưng bừng rộn rã và ta ngắm nhìn những tuổi thơ đang dần qua, ngắm lại mình ngày một già thêm mãi! Mỉm cười khi thấy mình đang rúng động bởi thời gian...

Tuesday, September 4, 2007

Sarah Chang


Sarah Chang (sinh ngày 10/12/1980) là nữ nghệ sĩ vĩ cầm người Mỹ gốc Hàn. Cô sinh ra tại Philadelphia, bang Pensylvania, mang trong mình dòng máu Hàn quốc. Min- Soo Chang, cha cô cũng là nhạc công chơi vĩ cầm và Myong Jun Chang, mẹ cô là nhà soạn nhạc. Năm lên 3 tuổi, Sarah Chang xin ba mẹ cho cô được học chơi vĩ cầm và năm lên 6 cô tham dự buổi trình diễn thử vào trường Juiilliard với bản Concerto dành cho violin của Bruch. Sarah Chang được nhận vào học trong studio của Dorothy Delay, người thầy dạy vĩ cầm của những nghệ sĩ nổi tiếng hàng đầu trên thế giới như: Itzhak Perlman, Midori Goto, Gil Shaham, Chlomo Mintz và nhiều người khác, bao gồm cả cha cô, Min Soo Chang. Cô cũng được HyoKang, một cựu sinh viên và là trợ lý của DeLay dạy trực tiếp.

Chang được xem là thần đồng âm nhạc rất sớm khi cô mới chỉ vừa 8 tuổi, năm đó cô được tham gia vào buổi trình diễn cùng với những tên tuổi như Zubin Mehta và Riccardo Muti, Mehta đang chơi cho Dàn nhạc Newyork Philharmonic và Muti chơi cho Dàn nhạc Philadelphia. Ngay lập tức, cả hai dàn nhạc này đều đưa ra những lời mời hứa hẹn đến Sahar Chang. Vào năm lên 9. Sahrah Chang trở thành nghệ sĩ trẻ nhất được thu âm. Người thầy dạy của cô đã trả lời phỏng vấn rằng người ta sẽ không thể gặp “bất cứ điều gì kỳ lạ như Sarah Chang”

Yehudi Menuhin đã gọi Sarah Chang là “nghệ sĩ chơi dương cầm tuyệt vời nhất, hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất mà tôi từng gặp”. Những cái tên như Berlin Philharmonic, Sir Colin Davis, André Previn và Julian Lloyd Webber chỉ là một vài trong số rất nhiều tên tuổi nhạc cổ điển nổi tiếng mà Sarah Chang đã từng chơi hay thu âm cùng.

Ngày 02/10/2007, bản thu âm mới Bốn mùa - Vivaldi của Sarah Chang cùng với dàn nhạc Orpheus Chamber được xuất bản tại nước Mỹ thông qua EMI Classics.

Sarah Chang sử dụng cây đàn Giuseppe Guarneri del Gesu 1717.

(Dịch từ Wikipedia : http://en.wikipedia.org/wiki/Sarah_Chang)

Một số bản nhạc do Sarah Chang trình bày:

Sarah Chang - Chopin Nocturne Violin

Sarah Chang (Violin) & Berliner Phil.-Placido Domingo

Vitali Chaconne - Sarah Chang

Sarah Chang Vivaldi Four Seasons Summer Presto

Paganini - Cantabile, Sarah Chang






ALWAYS SOMEWHERE


Starry night over the Rhone - Vincent Van Gogh

ALWAYS SOMEWHERE
Music:Rudolf Schenker
Lyrics:Klaus Meine
Listen to the song 





Arrive at seven the place feels good
No time to call you today
Encores till eleven then Chinese fool
Back to the hotel again 
 
I call your number the line ain't free
I like to tell you come to me
A night without you seems like a lost dream
Love I can't tell you how I feel 
 
Always somewhere
Miss you where I've been
I'll be back to love you again 
 
Always somewhere
Miss you where I've been
I'll be back to love you again
 
Another morning another place
The only day off is far away
But every cith has seen me in the end
And brings me to you again 
 
Always somewhere
Miss you where I've been
I'll be back to love you again